Lừa vay tiền để đánh đề sau đó không trả thì bị xử lý như thế nào?
Theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật Hình sự thì người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
Thứ nhất, vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
Thứ hai, vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân theo quy định tại khoản 4 Điều 140 của Bộ luật Hình sự.
Với trường hợp mà bạn nêu, bạn của bạn có được tài sản của bạn thông qua hợp đồng vay tài sản, nhưng sau đó đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp (đánh đề), dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Hành vi này đã đủ dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì bạn có thể tố giác hành vi vi phạm của người đó đến cơ quan điều tra, kèm theo các tài liệu, chứng cứ có liên quan để yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình sẽ kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố vụ án hình sự.
Thư Viện Pháp Luật