Khái niệm giám hộ là gì ?
Điều 56 BLDS năm 2005 quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được đề cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người giám hộ)”.
Giám hộ có hai hình thức đó là giám hộ đương nhiên và giám hộ cử.
Trong đó, giám hộ cử là hình thức giám hộ theo trình tự do Pháp luật quy định. Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm đề nghị một cá nhân hoặc một tổ chức làm giám hộ. Như vậy, mọi cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện làm người giám hộ đều trở thành người giám hộ cử. Việc cử người giám hộ theo quy định tại Điều 61 BLDS năm 2005 trong hai trường hợp cụ thể:
+ Không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 61 BLDS 2005
+ Không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 62 BLDS 2005
Pháp luật quy định các trường hợp thay đổi người giám hộ áp dụng đối với cẩ giám hộ đương nhiên và giám hộ được cử, tại Điều 70 BLDS năm 2005 như sau:
+ Người giám hộ không còn đủ điều kiện quy định tại Điều 60 BLDS.
+ Người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động.
+ Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ.
+ Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.
Khi thay đổi người giám hộ được cử thì thủ tục thay đổi người giám hộ được cử được thực hiện theo quy định tại Điều 64 và Điều 71 BLDS. Khi thay đổi người giám hộ thì quan hệ giám hộ vẫn còn. Do đó những quyền và nghĩa vụ của người giám hộ được chấm dứt còn người tiếp nhận việc giám hộ sẽ tiếp tục thực hiện việc giám hộ đó. Việc thay đổi người giám hộ có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người được giám hộ, vì thế pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể phải có sự chuyển giao việc giám hộ của người giám hộ được cử. Theo đó:
+ Khi thay đổi người giám hộ thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có người giám hộ mới, người đã thực hiện việc giám hộ phải chuyển giao giám hộ cho người thay thế mình (Điều 31 Nghị định 158/2005/NĐ-CP).
+ Việc chuyển giao giám hộ phải được thành lập bằng văn bản, trong đó ghi rõ lý do chuyển giao và tình trạng tài sản của người được giám hộ tại thời điểm chuyển giao. Người được cử giám hộ, người giám sát giám hộ chứng kiến việc chuyển giao giám hộ.
+ Trong trường hợp thay đổi người giám hộ vì lý do người giám hộ là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự, mất tích; tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động thì cử người giám hộ lập biên bản, ghi rõ tình trạng tài snar của người được giám hộ, quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực hiện việc giám hộ để chuyển giao cho người giám hộ mới với sự chứng kiến của người giám sát việc giám hộ.
Bộ Luật dân sự hiên hành quy định người giám sát việc giám hộ có trách nhiệm phải chứng kiến chuyển giao người giám hộ, thay vai trò chứng kiến của UBND cấp xã.
+ Việc chuyển giao giám hộ phải được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ mới công nhân.
Ngoài việc sửa đổi câu chữ cho phù hợp, chính xác, thống nhất các thuật ngữ thì so với quy định tại Điều 81 BLDS 1995 thì BLDS 2005 tại Điều 71 bổ sung khoản 4 như sau: Việc chuyển giao giám hộ phải được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ mới công nhận. Quy định này phù hợp với quy định về đăng ký hộ tịch. Ủy ban nhân dân xã, phương, thị trấn là Cơ quan đăng ký hộ tích có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh tử, li hôn, giám hộ, nuôi con nuôi…hơn nữa theo Điều 63 BLDS thì việc cử người giám hộ nên việc chuyển giao giám giám hộ của người giám hộ được cử cần phải có sự công nhận của UBND xã, phường, thị trấn người giám hộ mới là điều đương nhiên.
Thư Viện Pháp Luật