Khi công chứng hợp đồng mua bán xe yêu cầu có xác nhận tình trạng hôn nhân tại thời điểm chủ xe mua xe
1. Thẩm quyền chứng nhận hợp đồng mua bán xe.
Khi bạn mua bán xe thì bạn có thể đến bất kỳ tổ chức công chứng nào để yêu cầu công chứng hợp đồng mua bán xe đó. Tổ chức công chứng có thể là Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng. Thủ tục công chứng được thực hiện theo quy định của Luật Công chứng.
2. Yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân của Phòng công chứng.
Điều 35 Luật Công chứng quy định, khi yêu cầu công chứng, người yêu cầu công chứng phải xuất trình những giấy tờ sau:
- Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch theo mẫu;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
- Bản sao giấy tờ tuỳ thân;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
Như vậy, ngoài những giấy tờ về chủ thể (chứng minh nhân dân của hai bên); giấy tờ về xe (đăng ký xe) thì cơ quan công chứng còn có thể yêu cầu các bên xuất trình những giấy tờ cần thiết để đảm bảo cho việc chứng nhận hợp đồng chính xác và hợp pháp.
Trong trường hợp của bạn, công chứng viên yêu cầu chủ sở hữu xe phải xuất trình giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của chủ xe tại thời điểm mua xe là đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu này nhằm mục đích xác định chiếc xe là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng của người đó. Vì, nếu căn cứ vào đăng ký xe (chỉ mang tên chủ xe) thì không xác định được đó là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân mà trên giấy chứng nhận quyền tài sản chỉ ghi tên một người thì tài sản vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng và cả hai vợ chồng đều có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản đó (trừ trường hợp người vợ/ người chồng chứng minh được đó là tài sản riêng của mình). Như vậy, nếu đây là tài sản riêng của chủ xe thì chủ xe phải xuất trình xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc xuất trình giấy tờ về việc được tặng cho riêng, được thừa kế riêng ….
3. Việc phường từ chối xác nhận tình trạng hôn nhân của chủ xe.
Theo Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, Ủy ban nhân dân phường nơi thường trú của một người là cơ quan có thẩm quyền xác nhận và quản lý các vấn đề về hộ tịch của người đó, như: sinh, kết hôn, tử… Một người muốn thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch của mình thì cũng phải thông qua cơ quan quản lý có thẩm quyền, chứ không được tự ý thực hiện. Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định: Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn. Việc một người đã kết hôn hay còn đang độc thân thì Ủy ban nhân dân phường nơi thường trú của họ sẽ nắm rõ.
Đúng như Phòng công chứng nói, việc xác nhận tình trạng hôn nhân là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân phường. Vì tại thời điểm bán xe, chủ xe đã đăng ký kết hôn nên có thể viết đơn xin xác nhận với nội dung như: lần kết hôn này là đăng ký kết hôn lần đầu (một số trường hợp thì trong giấy chứng nhận kết hôn có ghi rõ: “Kết hôn lần đầu”); hoặc xác nhận tại thời điểm mua xe (ngày … tháng … năm …), tôi không có đăng ký kết hôn với ai.
Thư Viện Pháp Luật