Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình
Căn cứ trên nội dung chị trình bày, chúng tôi xin trả lời chị như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với những tranh chấp về hôn nhân và gia đình là 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 02 tháng (ngày thụ lý vụ án là ngày Tòa án nhận được biên lai nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện). Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 10/2014 (trong khoảng thời gian 4 tháng), Tòa án đã tiến hành triệu tập để hòa giải là đúng quy định của pháp luật. Nhưng theo chị trình bày thì Tòa án đã triệu tập 05 lần mà chồng chị không đến. Trong khi căn cứ khoản 1 Điều 182 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Điều 16 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 29 tháng 3 năm 2011 thì trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì Toà án lập biên bản về việc không tiến hành hoà giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tuy nhiên, cần xét đến tính hợp lệ của các lần triệu tập của Tòa án. Căn cứ quy định tại Chương X Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 29 tháng 3 năm 2011 thì việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ. Theo đó, việc triệu tập đương sự có thể thực hiện thông qua thủ tục tống đạt, thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người thứ ba được uỷ quyền, niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc tiến hành các thủ tục triệu tập này phải thực hiện theo đúng thủ tục được quy định tại các Điều 151, 152, 153, 154, 155, 156 của BLTTDS được xác định là triệu tập hợp lệ. Vì vậy, nếu Toà án đã triệu tập đương sự nhưng việc triệu tập đó được thực hiện không theo đúng thủ tục do BLTTDS quy định thì việc triệu tập đó được xác định là không hợp lệ. Toà án triệu tập không hợp lệ đương sự thì về nguyên tắcviệc triệu tập đó không có giá trị pháp lý.
Như vậy, để áp dụng quy định trên và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì cần phải khẳng định việc triệu tập trên là hợp lệ. Nếu việc triệu tập đã được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc Tòa án không đưa vụ án ra xét xử là vi phạm quy định về thủ tục tố tụng. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án vi phạm quy định về thủ tục tố tụng, cố tình kéo dài thời gian giải quyết vụ án, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì căn cứ Điều 396 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, chị có thể gửi đơn khiếu nại đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết; trường hợp thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án là Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện thì gửi đơn khiếu nại đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết
Thư Viện Pháp Luật