Có quyền kê biên tài sản mà người phải thi hành án chuyển nhượng sau khi có quyết định của Toà án?

Ngày 03/10/2011 Toà án nhân dân thành phố H đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thanh toán nợ. Theo quyết định thì bà A phải thanh toán cho bà B số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Bà B đã làm đơn yêu cầu thi hành án vào ngày 23/4/2012, Cơ quan thi hành án đã thụ lý và tiến hành xác minh. Qua xác minh, được biết gia đình bà A có 01 lô đất tại thành phố H, lô đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2006, GCNQSDĐ mang tên bà A và ông H (ông H là chồng bà A). Ngày 04/10/2011 bà A và ông H đã làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho vợ chồng ông T và bà L tại phòng công chứng. Hiện tại ông T và bà L đã làm thủ tục đăng ký QSDĐ tại văn phòng đăng ký QSDĐ và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy cơ quan thi hành án có được kê biên tài sản là quyền sử dụng đất trên theo Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTB-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hay không?

Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự” quy định: Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.

Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.

Đối chiếu với quy định nêu trên, trường hợp bạn hỏi, ngày 03/10/2011 Toà án nhân dân thành phố H đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thanh toán nợ, theo quyết định thì bà A phải thanh toán cho bà B số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 04/10/2011 bà A và ông H đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T và bà L tại Phòng công chứng, hiện tại ông T và bà L đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà A chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không sử dụng tiền đó để thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản của bà B đã chuyển nhưọng cho người khác sau khi có quyết định của Toà án.

Khi kê biên tài sản của bà A, thủ tục giải quyết yêu cầu về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Kê biên tài sản

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào