Giải thích cho đương sự về quyền khởi kiện tại Toà án
Việc sang nhượng (chuyển nhượng) quyền sử dụng đất giữa ông B và ông C tháng 03/2010 thực hiện trước khi bà A và ông B đưa đơn lý hôn, đã được UBND xã chứng thực, nhưng chưa đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nên chưa có hiệu lực pháp luật vì theo quy định tại Điều 168, Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất này chỉ có ông B và ông C ký kết mà không được sự đồng ý của bà C, trong khi đó diện tích đất này là tài sản chung của vợ chông bà B và ông A thì có thể hợp đồng này bị vô hiệu đối với phần tài sản của bà B trong không tài sản chung đó.
Do vậy, về mặt pháp lý, cơ quan thi hành án dân sự căn cứ Luật Thi hành án dân sự phải thi hành theo nội dung quyết định của Toà án đã tài sản chung bà A được sử dụng 1000m2 đất, ông B sử dụng 1000m2 đất.
Trong quá trình thi hành án phát sinh tranh chấp, thì Chấp hành viên cần giải thích cho đương sự biết về quyền khởi kiện tại Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thư Viện Pháp Luật