Vấn đề tài sản khi ly hôn
Theo quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”.
Như vậy nếu đất mà chị gái bạn được cho riêng, sau khi kết hôn vẫn không nhập vào tài sản chung của vợ chồng và chị bạn vẫn đứng tên một mình và không có thỏa thuận nào nhập tài sản vào tài sản chung của hai vợ chồng thì đó được xác định là tài sản riêng của chị bạn. Như vậy, có thể xác định quyền sử dụng đất mà chị bạn được tặng cho là tài sản riêng của chị bạn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 thì “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Như vậy trừ những tài sản hình thành trước thời ký hôn nhân, tài sản được tặng cho, thừa kế riêng thì mọi tài sản khác hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung vợ chồng. Vì vậy, tài sản của cả hai người làm ra trong thời kỳ này vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng. Và do đó khi ly hôn, tòa sẽ xem xét chia phần tài sản chung này của hai người.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, nếu chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp này thì phải căn cứ Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình, theo đó
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.”
Thư Viện Pháp Luật