Hợp đồng chuyển nhượng quyền tài sản thuộc sở hữu chung
Với tình huống đặt ra đây là trường hợp yêu cầu chuyển nhượng một phần trong khối tài sản chung hợp nhất. Theo dữ liệu nêu trong tình huống thì người chủ sở hữu chung đã thông báo về việc bán phần quyền sở hữu của mình với chủ sở hữu còn lại trong thời gian hơn 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2006)
Theo quy định tại Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn 3 tháng đối với tài sản chung là bất động sản… kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác”.
Như vậy trong trường hợp này, chị Lan đã thông báo với anh trai của mình về việc chuyển nhượng phần nhà và quyền sử dụng đất trong thời gian hơn 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 9) nhưng anh Phan không mua nên chị có quyền chuyển nhượng phần nhà, đất đó cho người khác.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai năm 2003, trong trường hợp này, nếu chị Lan và anh Lâm đến yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã nơi có nhà, đất để yêu cầu chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì cán bộ tư pháp – hộ tịch của Uỷ ban nhân dân xã có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết yêu cầu đó. Tuy nhiên đây là khối tài sản chung hợp nhất, để chuyển nhượng được phần của mình thì anh Lam và chị Lan cần phải có một văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung. Sau khi phân chia tài sản chung xong thì chị Lan có thể tự mình chuyển nhượng phần tài sản của mình theo quy định của pháp luật
Thư Viện Pháp Luật