Tính lãi suất chậm thi hành án khi trước đó chỉ yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền gốc
Vấn đề bạn hỏi là một trong những bất cập trong hoạt động thi hành án dân sự do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể. Vì vậy, chúng tôi trao đổi, thông tin một số nội dung sau đây:
1. Tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định về tính lãi suất chậm thi hành án: “Để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án”. Thông tư liên tịch này có những nội dung không còn phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó (như: lãi đối với số tiền chậm trả theo “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố” quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 thay cho “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định” theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự năm 1995).
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 không quy định rõ trong trường hợp người được thi hành án chỉ yêu cầu phần tiền gốc mà chưa yêu cầu thi hành án đối với khoản lãi chậm thi hành án. Do đó, sau khi trao đổi, thống nhất với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, ngày 24/02/2005 Bộ Tư pháp có Công văn số 404/TP-THA hướng dẫn tại điểm 1.3 mục 1 về ra quyết định thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án và mục 14 về việc tính lãi suất chậm thi hành án, trong đó có hướng dẫn: “Đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu khi yêu cầu thi hành án, người được thi hành án chỉ yêu cầu thi hành số tiền gốc theo bản án, quyết định của Toà án mà chưa yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án, thì cơ quan thi hành án giải thích cho người được thi hành án biết về quyền yêu cầu thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án. Nếu người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án mà cơ quan thi hành án chưa ra quyết định thi hành án thì cơ quan thi hành án ra một quyết định thi hành án chung cho số tiền gốc và lãi suất chậm thi hành án; nếu người được thi hành không yêu cầu thi hành phần lãi suất chậm thi hành án thì cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành án đối với số tiền gốc mà họ đã yêu cầu thi hành án.
Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án đối với số tiền gốc, sau đó người được thi hành án mới có đơn yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án thì nếu bản án, quyết định của Toà án còn trong thời hiệu yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án (áp dụng như một khoản của bản án, quyết định của Toà án). Việc tính lãi suất chậm thi hành án trong trường hợp này thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 và Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.
Nếu bản án, quyết định đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định không chấp nhận đơn yêu cầu thi hành án quá hạn đối với khoản lãi suất chậm thi hành án đó theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ” (tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 861/QĐ-BTP ngày 27/4/2009 hủy bỏ Công văn số 404/TP-THA nêu trên do có những nội dung không còn phù hợp).
Căn cứ hướng dẫn nêu trên và quy định tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính, thì khoản lãi suất chậm thi hành án là một khoản của bản án, quyết định của Toà án, do đó người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án đối với khoản này, tuy nhiên khoản đó chỉ tính đối với số tiền gốc còn phải thi hành án tại thời điểm người được thi hành án yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án. Bởi vì, thời điểm phát sinh quyền lợi về lãi suất chậm thi hành án đối với người được thi hành án là thời điểm họ yêu cầu thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án và lãi suất chậm thi hành án chỉ phát sinh đối với số tiền còn phải thi hành án tại thời điểm họ yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án.
Như vậy, có thể hiểu bản án năm 2009 tuyên khoản nợ gốc và tuyên khoản lãi suất chậm thi hành án, thì người được thi hành có quyền yêu cầu thi hành án đối với hai khoản này trong thời hạn 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Song, đến năm 2010 người được thi hành án mới có đơn yêu cầu thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án, trong khi đó người phải thi hành án đã thi hành xong 50.000.000 đồng của số tiền gốc 100.000.000 đồng, thì “khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án” là 50.000.000 đồng.
2. Để bảo đảm quyền lợi của các đương sự, trong khi chưa có văn bản quy định chi tiết, cụ thể về vấn đề này, mặc dù Công văn số 404/TP-THA ngày 24/02/2005 của Bộ Tư pháp đã bị huỷ, nhưng cơ quan thi hành án cần vận dụng để thực hiện việc giải thích cho người được thi hành nội dung nêu trên khi nhận đơn yêu cầu thi hành án do người được thi hành án chỉ yêu cầu khoản tiền gốc mà chưa hoặc không yêu cầu thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án.
Thư Viện Pháp Luật