Bảo lãnh vay vốn bằng quyền sử dụng đất
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 119 và Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, khi người sử dụng đất là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất thì hợp đồng phải có chứng nhận của công chứng nhà nước và được đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Vì vậy, với đề nghị chứng thực hợp đồng bảo lãnh vay vốn của bà Kiều Đoan Trang, UBND phường Q cần giải thích và hướng dẫn cho bà Trang biết rằng do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên UBND phường không có thẩm quyền thực hiện việc chứng thực hợp đồng bảo lãnh của bà mà bà cần tới Phòng Công chứng hoặc Văn phòng Công chứng có thẩm quyền địa hạt với bất động sản của bà để công chứng hợp đồng (Theo quy định của Luật Công chứng năm 2006). Đồng thời, cũng cần hướng dẫn thêm rằng sau khi công chứng hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, bà Trang cần tiếp tục nộp hồ sơ đăng ký việc bảo lãnh tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường vì việc bảo lãnh chỉ có hiệu lực từ thời điểm được đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Thư Viện Pháp Luật