Xác định thuế nhà, đất trong trường hợp có tranh chấp về quyền sử dụng đất
Trong tình huống này, diện tích đất ở của ông Côi là thuộc địa bàn nông thôn, do đó theo quy định hướng dẫn về căn cứ tính thuế nhà, đất tại tiểu mục 3 Mục II Thông tư số 83/TC-TCT hướng dẫn thi hành Nghị định số 94-CP ngày 25/08/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất, thì ông Côi phải nộp thuế trên toàn bộ diện tích thực tế sử dụng, bao gồm cả diện tích đất bỏ trống. Đối với phần diện tích đang tranh chấp với ông Trung, thì mặc dù cơ quan có thẩm quyền chưa giải quyết tranh chấp này nhưng trên thực tế thì ông Côi đang là người sử dụng diện tích đó và hưởng lợi từ việc cho thuê làm xưởng sản xuất bánh đa. Do đó, ông Côi là người phải nộp thuế đất đối với phần diện tích đang tranh chấp này. Việc nộp thuế đất đối với phần diện tích đang tranh chấp không có nghĩa là ông Côi được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với phần đất đó. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã A hoặc người được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã A ủy quyền cần giải thích rõ quy định này để ông Côi biết và thực hiện đúng quy định này. Giải thích cho ông Côi rõ, diện tích phải nộp thuế đất của ông Côi như sau:
+ Diện tích xây nhà: 80m2
+ Diện tích sân: 100m2
+ Diện tích vườn: 200m2
+ Diện tích ngõ đi: 40m2
+ Diện tích bỏ trống không sử dụng: 100m2
+ Diện tích đất đang tranh chấp nhưng ông Côi là người sử
dụng vì đang thu tiền cho thuê: 250m2
Như vậy, tổng diện tích chịu thuế đất của ông Côi là: 80m2 + 100m2 + 100m2 + 40m2 + 100m2 + 250m2 = 670m2
Thư Viện Pháp Luật