Xác định thuế môn bài của hộ kinh doanh nhỏ có thu nhập thấp
Trong tình huống này, cần thấy rằng kiến nghị về việc xin miễn thuế môn bài của bà Mùi là xuất phát từ chỗ chưa hiểu bản chất của việc nộp loại thuế này. Do đó, cán bộ uỷ nhiệm thu cần giải thích cho bà Mùi hiểu thực chất thuế môn bài chỉ là một khoản thu có tính chất lệ phí, được thu hàng năm đối với các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Căn cứ tiểu mục 2 Mục I Thông tư số 96/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 75/2002/NĐ- CP về việc điều chỉnh mức thuế môn bài, thì mọi tổ chức, cá nhân đều phải nộp thuế môn bài, kể cả hộ kinh doanh thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế môn bài. Đồng thời, cán bộ uỷ nhiệm thu cũng cần giải thích thêm cho bà Mùi hiểu là căn cứ vào thực tế bán hàng của bà nên Hội đồng tư vấn thuế của xã đã áp dụng mức thuế môn bài thấp nhất đối với bà (mức thuế môn bài bậc 6 áp dụng đối với hộ kinh doanh cá thể 50.000 đồng/năm). Do bà Mùi mới kinh doanh từ tháng 10/2005, nên chỉ phải nộp một nửa mức thuế môn bài của cả năm, tức là chỉ phải nộp thuế môn bài ở mức 25.000 đồng. Nếu bà Mùi vẫn tiếp tục kiến nghị thì căn cứ tiểu mục 1 Mục III Thông tư số 96/2002/TT-BTC quy định, việc xác định mức thuế môn bài được dựa trên cơ sở thống nhất giữa Đội thuế với Hội đồng tư vấn thuế xã. Do vậy, cán bộ uỷ nhiệm thu cần giải thích cho bà Mùi biết về người có trách nhiệm giải quyết kiến nghị của bà là Hội đồng tư vấn thuế xã hoặc Đội thuế.
Thư Viện Pháp Luật