Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có được hưởng án treo không?
Khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Bên cạnh đó, Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Án treo cụ thể như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
…
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, trong trường hợp nói trên, bạn của bạn bị Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm e “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” và tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bạn của bạn có thể bị Tòa án nhân dân tuyên phạt hình phạt tù với mức hình phạt từ 2 đến 7 năm tù.
Mặt khác, nếu hành vi phạm tội nói trên của bạn của bạn bị Tòa án xử phạt tù nhưng không quá ba năm. Bạn của bạn có nhân thân tốt, các tình tiết mà bạn kể trên của bạn của bạn được Tòa án xác định là các tình tiết giảm nhẹ và nếu Tòa án xét thấy không cần phải bắt bạn của bạn phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án có thể cho bạn của bạn hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Thư Viện Pháp Luật