Hành vi chém người

Chuyện là 2 nhà sát nhau có xích mích lâu ngày vào ngày 22/3 nhà hàng hàng xóm tức N.T.T cải cọ với Mẹ em tức bà N.T.H và Mẹ em có qua nhà N.T.T để phân bua 2 bên có lời qua tiếng lại , Ba em ông P.V.T đang xây dựng gần nhà nghe thấy có tiếng cải cọ liền về và có cầm theo 1 cây búa đóng đính , bố em qua trước nhà chị N.T.T ( vì lúc này đang cải cọ ngay trước nhà chị N.T.T ) ra ý can ngăn nhưng 2 bên vãn lời qua tiếng lại xô sát lúc này bố của chị N.T.T cầm cây cào cỏ dơ lên cao bổ xuống hướng mẹ em đang đứng nhưng mẹ em né được , bố em thấy vậy liền cầm búa nhào vào quơ qua quơ lại nhưng chị N.T.T rút ra 1 cây dao ở bên hông gần cửa. Tính luôn cán là dài khoản 1 cánh tay (nó giống như cây Rựa mà tiếng đia phương hay gọi) vung lên và chém lúc này bố em né không kịp và đưa tay ra đỡ thì con dao chém chúng vào ngay lòng bàn tay giữa ngón cái và ngón trỏ vết thương rất sâu. Lúc này mẹ em tức bà N.T.H thấy có đống củi khô liền rút 1 cây và chọi vào nhà chị N.T.T rồi lôi bố em ông P.V.T về nhưng bố của chị N.T.T có cầm cào chạy theo với thái độ muốn bổ mẹ em tức bà N.T.H nhưng lúc đó chồng chị N.T.T liền chạy theo can và ôm giữ ông lại, lúc này mẹ em chạy về và nhờ ông hàng xóm tức N.V.N chở đi lên xã đễ trình báo sự việc và liền chỡ lên Bệnh Viện gần đó đễ xem xét viết thương. Bác sĩ yêu cầu phải mỗ để nối gân vì vết chém làm đứt mấy công gân ỡ ngón tay cái mới may lại được. Bố em là chủ gia đình là nguồn kinh tế chính của cả nhà mà vết thương như vậy bác sỉ nói củng phải hơn 1 tháng mới hoạt động và làm việc lại được. Gia đình chị N.T.T hoàn toàn không có ai bị thương tích gì. Nhà em củng đã làm đơn thưa gia đình chị N.T,T lên xã nơi quản lý trực tiếp dân cư nơi em sinh sống hiện giờ. Luật Sư cho em hỏi là hành vi của gia đình chị N.T.T được khép vào tội gì và thưa kiện như những sự việc hành vi nêu như trên thì chị N.T.T bị sử phạt gia sao? Và bồi thường như thế nào?

Hành vi của chị NTT có căn cứ xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự. Để có căn cứ chắc chắn thì cần phải căn cứ vào tỷ lệ thương tích mà bố em đã phải gánh chịu.

Trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì chị NTT sẽ phải đối mặt với án phạt được quy định tại Điều 104.

Bên cạnh trách nhiệm hình sự chị ta còn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Cụ thể các quy định đó như sau:

Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại khi sức khỏe bị xâm hại.

Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định..

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào