Khung hình phạt của tội phạm ma tuý
1. Từ khi sửa đổi bổ sung bộ luật hình sự vào năm 2009 thì sử dụng trái phép chất ma túy không bị xử lý hình sự nữa và chỉ xử lý hành chính. Đối với hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa kịp sử dụng) thì bị xử lý theo Điều 194 BLHS. Thông thường những người mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy bị bắt thì không mấy khi là người phạm tội lần đầu. Tuy nhiên, để xử lý về hành vi phạm tội nhiều lần thì phải có đủ căn cứ, chứng cứ. Việc khai nhận của bị can, bị cáo chỉ là một căn cứ chứ không quyết định nội dung vụ án.
2. Hàm lượng ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự: Thông tư liên tịch số 17/2007 TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999, tại mục 3.6 đã quy định như sau:
“3.6. Người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với số lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính:
…b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng dưới không phẩy một gam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới một gam;…”
Thư Viện Pháp Luật