Vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người nhận hối lộ

Kính chào luật sư, tôi có một số thắc mắc liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự người nhận hối lộ. Cụ thể như sau: 1. Giả sử người nhận hối lộ chưa thực hiện theo yêu cầu của người đưa hối lộ, mà trả lại tiền cho người đưa hối lộ thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự của người nhận hối lộ hay k?! 2. Theo Khoản 1, Điều 279 Bộ Luật Hình sự quy định:"Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản...".Cụm từ "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" được hiểu như thế nào?!Nếu 1 người có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ, quyền hạn này không thể thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ mà chỉ giúp làm trung gian đến người đủ khả năng thực hiện những yêu cầu của người đưa hối lộ. Người trung gian này đã nhận tiền của người đưa hối lộ nhưng sau đó người trung gian này cảm thấy việc mình làm là sai nên đã trả lại tiền cho người đưa hối lộ và không giúp người đưa hối lộ đến gặp người có thể thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ.Vậy người trung gian này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?!

​1. Nội dung bạn hỏi là về cấu thành tội phạm. Theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự quy định:

"Điều 279. Tội nhận hối lộ 

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;
b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
đ) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".                    Như vậy, theo quy định của điều luật này thì thời điểm người có chức vụ quyền hạn đã "nhận" tiền hoặc "sẽ" nhận tiền trị giá từ 2 triệu đồng trở lên để thực hiện hành vi hoặc không thực hiện hành vi công vụ vì mục đích vụ lợi là cấu thành tội phạm theo tội danh này. Nếu nhận tài sản của người được yêu cầu rồi, sau đó trả lại tài sản thì vẫn bị xử lý về tội nhận hối lộ. ". Theo quy định tại khoản 6, Điều 289 Bộ luật hình sự thì chỉ có người đưa hối lộ sau đó chủ động khai báo khi chưa bị phát giác thì mới không bị xử lý hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự: "Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.". Theo quy định của pháp luật thì người nhận hối lộ phải là người có chức vụ quyền hạn. Những người môi giới hối lộ, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi sẽ bị xử lý về các tội danh đó trong nhóm tội tham nhũng hoặc bị xử lý với vai trò đồng phạm giúp sức.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Trách nhiệm hình sự

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào