Cản trở và không tố giác hành vi phạm tội, có vi phạm pháp luật không?
Đối chiếu với các quy định tại Luật phòng, chống mua bán người thì việc C ngăn cản A không tố giác hành vi của chủ quán M đã vi phạm quy định tại: Khoản 8, Điều 3 của Luật Phòng, chống mua bán người: “nghiêm cấm cản trở việc tố giác, tố cáo, khai báo hành vi mua bán người”; vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật phòng, chống mua bán người: “Cá nhân có nghĩa vụ tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này với cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào”.
Mặt khác, tại Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Tội không tố giác tội phạm quy định:
“1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.”
Như vậy, tuỳ vào tích chất, mức độ của hành vi cản trở A tố giác chủ quán M với cơ quan công an, C có thể bị xử lý hình sự với tội danh “không tố giác tội phạm” nêu trên.
Thư Viện Pháp Luật