Tuyên bố mất tích là gì?
Căn cứ pháp lý: Bộ luật dân sự 2005
Tuyên bố mất tích là Khi một người biệt tích trong 6 tháng liền thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt và quyết định quản lý tài sản của người đó.
1. Việc quản lý tài sản của người vắng mặt như sau: a. Tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý. b. Tài sản chung thì chủ sở hữu chung còn lại quản lý. c. Tài sản do vợ chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha mẹ của người vắng mặt quản lý. Nếu không có những người thuộc điểm a, b, c thì tòa án chỉ định một trong những người thân thích của người vắng mặt quản lý, nếu không có người thân thích thì cử người khác quản lý.
2. Người quản lý tài sản của người vắng mặt có các quyền và nghĩa vụ: a. Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt. b. Cho bán ngay tài sản có nguy cơ bị hư hỏng. c. Trích một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ của người vắng mặt. d. Giao lại tài sản khi người vắng mặt trở về. đ. Phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc quản lý.
Khi một người biệt tích đã 2 năm mà đã áp dụng biện pháp tìm kiếm mà không có kết quả thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án tuyên bố nguời đó mất tích. Tài sản của người bị tuyên bố mất tích vẫn được giao lại cho những người nói ở phần 1 quản lý. Sau khi tòa án đã tuyên bố mất tích thì chồng hoặc vợ người đó có quyền xin ly hôn.
Nếu người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó, tòa án hủy quyết định tuyên bố mất tích. Người đó được nhận lại tài sản, nhưng nếu vợ hoặc chồng người đó đã được tòa án cho ly hôn thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực.
Thư Viện Pháp Luật