Chia bài hộ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Điều 248 BLHS có quy định về hành vi đánh bạc như sau:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”
Trong trường hợp của anh, mặc dù anh của anh không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng hành vi chia bài cho người khác đánh được nhận định là hành vi giúp sức cho hành vi đánh bạc. Hay nói cách khác, anh của anh tham gia đánh bạc với tư cách là người giúp sức được quy định tại khoản 2 Điều 20: “Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.
Như vậy, nếu trường hợp đánh bạc của chú anh đủ dấu hiệu khởi tố vụ án hình sự về Tội đánh bạc thì chú của anh sẽ bị khởi tố bị can với vai trò là đồng phạm. Việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm được quy định tại Điều 53 BLHS như sau:
"Điều 53. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”
Theo khoản 1 Điều 248 , khởi tố bị can đối với hành vi đánh bạc chỉ xảy ra khi người đó “đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Có nghĩa rằng, anh của anh chỉ bị khởi tố khi tổng số tiền hay hiện vật thu được trong vụ án có giá trị trên hai triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng anh của anh đã bị kết án về Tội đánh bạc hoặc Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Ngược lại, nếu anh của anh không đáp ứng điều kiện này thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:
a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;
b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;
d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề”.
Thư Viện Pháp Luật