Có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Trường hợp của mẹ chồng bà có đầy đủ điều kiện phù hợp với quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 50 Luật đất đai về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất: “Hộ gia đình, công nhận đang sử dụng đất ổn định, được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận chứng cứ tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15-10-1993, nay được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15-10-1993”.
Như vậy việc UBND phường xác định kiến nghị của mẹ con bà cả là tranh chấp và đã dừng việc cấp giấy chứng nhận cho mẹ chồng bà là sai quy định của pháp luật. Bà cả và con trai bà cả không còn có quyền lợi gì trên mảnh đất mà bà đang sử dụng nữa, bởi các lý do sau:
- Theo quy định tại Điều 193 Bộ luật Tố tụng Dân sự về hậu quả của việc đình chỉ vụ án dân sự trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với nhau thì người khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó nữa. Điều đó khẳng định bà cả và con trai bà cả vĩnh viễn không còn quyền yêu cầu việc chia di sản thừa kế mà bố chồng bà để lại.
- Hơn nữa bố chồng bà đã chết đến nay đã 19 năm, nếu có yêu cầu chia thừa kế thì thời hiệu để khởi kiện chia thừa kế đã hết. Mặt khác năm 1998 tất cả các đồng thừa kế đã cùng thỏa thuận việc chia thừa kế nên việc chia thừa kế được chấm dứt từ năm 1998. Như vậy nếu các đồng thừa kế có kiến nghị thì đây không phải là một loại tranh chấp để cơ quan chức năng căn cứ không cấp Giấy chứng nhận cho mẹ chồng bà.
Trường hợp mẹ chồng bà muốn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thì mẹ chồng bà có thể khiếu nại hành vi hành chính của UBND phường đã không tuân thủ quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật định.
Thư Viện Pháp Luật