Thời gian báo trước nếu chấm dứt hợp đồng lao động
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được đảm bảo theo những quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 nhưng người lao động có trách nhiệm phải thông báo trước một khoảng thời gian luật định trừ trường hợp hai bên tự thỏa thuận.
Theo đó, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày; nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 3 ngày làm việc hoặc 30 ngày hoặc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền tùy thuộc vào từng trường hợp được quy định tại Khoản 1, Điều 37, Bộ luật Lao động năm 2012.
Nếu người lao động không tuân thủ các quy định về thời gian báo trước thì người lao động đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Trong trường hợp này, người lao động không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động, phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước, phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động.
Điều 43, Bộ luật Lao động năm 2012 không đề cập đến ngày phép chưa sử dụng trong năm của người lao động. Vì vậy, cho dù người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì công ty bạn vẫn phải thanh toán tiền phép năm cho người lao động theo quy định tại Điều 114, Bộ luật Lao động năm 2012.
Thư Viện Pháp Luật