Giải quyết trường hợp người lao động nghỉ việc có báo trước

Bà A làm kế toán cho công ty tôi được 7 năm. Hợp đồng lao động mới nhất được ký ngày 2-1-2015 và có thời hạn 3 năm với mức lương là 20.000.000 đồng. Do công ty gặp khó khăn về tài chính nên tháng 10 và tháng 11 chỉ thanh toán cho bà A số tiền lương là 15.000.000 đồng và tháng 12 chưa trả. Hết tháng 1-2016 thì bà A nghỉ việc và có thông báo trước cho công ty khoảng 1 tháng. Do vẫn còn ngày phép nên tầm 23, 24-1-2016 bà A nghỉ luôn. Hiện tại bà A đang thuê luật sư yêu cầu giải quyết việc này. Tôi muốn hỏi, tiền lương thì công ty mình chắc chắn sẽ thanh toán, nhưng ngoài ra có phải trả thêm trợ cấp thôi việc không? Nếu không thì có thể áp dụng Ðiều 43 Luật Lao động không?


Căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Ðiều 48, Bộ luật Lao động năm 2012, khi hợp đồng lao động chấm dứt đúng theo quy định thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Khoản 1, Ðiều 43, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, trong trường hợp người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Như vậy, để xem xét khả năng được thanh toán trợ cấp thôi việc cho người lao động thì công ty cần phải dựa vào căn cứ hợp đồng lao động được chấm dứt đúng pháp luật. Chúng tôi không rõ vì sao bà A làm kế toán cho công ty bạn đã được 7 năm nhưng vẫn tiếp tục ký hợp đồng lao động có thời hạn 3 năm. 
Căn cứ theo quy định tại Ðiểm b, Khoản 1, Ðiều 37, Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong trường hợp không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 3 ngày làm việc. Nếu áp dụng pháp luật để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong trường hợp này, công ty bạn buộc phải thanh toán trợ cấp thôi việc cho bà A.
Tuy nhiên, nếu xem xét ở khía cạnh công ty bạn có thể đã áp dụng nhầm lẫn về loại hợp đồng lao động căn cứ theo quy định tại Khoản 2, Ðiều 22, Bộ luật Lao động năm 2012, thì khi hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng xác định thời hạn đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Tuy không có thông tin nhưng chúng tôi cho rằng, việc ký hợp đồng lao động mới nhất vào ngày 2-1-2015 và có thời hạn 3 năm có khả năng trái pháp luật và hợp đồng lao động này có thể là loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Và nếu đã xác định là hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, căn cứ theo quy định tại Khoản 3, Ðiều 37, Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày. Trong trường hợp này, người lao động đã vi phạm thời gian báo trước và sẽ được xem là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật căn cứ theo quy định tại Ðiều 41, Bộ luật Lao động năm 2012. Và như vậy, công ty bạn không có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động.
 

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Người lao động

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào