Các dấu hiệu cơ bản của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ
Do được tách từ tội “chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ “được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985. Nên các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này cũng tương tự như đối với tội “chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ” quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm này là chất phóng xạ chứ không phải là vật liệu nổ. Do đó khi phân tích các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này chúng ta chỉ nêu những dấu hiệu khác nhau giữa tội phạm này với tội “chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ”.
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chấp phóng xạ là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất phóng xạ.
Đối tượng tác động của tội phạm này là chất phóng xạ. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân, gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học có khả năng phát ra các chùm An-pha, Bê-ta, Gam-ma...Tác hại đặc trưng của chất phóng xạ là gây bệnh đối với người và động vật.
Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất phóng xạ hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan
Người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ thực hiện hành vi khách quan hoàn toàn tương tự như đối với người phạm tội các quy định tại các Điều 230, 232, 233. Tuy nhiên, đối với Điều 236 thay thuật ngữ “chế tạo” bằng thuật ngữ “sản xuất”, về bản chất không có gì khác nhau nhưng về học thuật thì đối với chất phóng xạ mà dùng thuật ngữ “chế tạo” là không chính xác nên nhà làm luật dùng thuật ngữ “sản xuất”, vì chỉ có thể nói sản xuất chất phóng xạ không ai nói chế tạo chấp phóng xạ.
b) Hậu quả
Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tùy trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
c) Các dấu hiệu khách quan khác
Tương tự như đối với các tội quy định tại các Điều 230, 232, 233, nếu việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng chất phóng xạ được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 236 Bộ luật hình sự.
Việc xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý, sử dụng, vận chuyển, mua bán chất phóng xạ.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép (trừ hành vi chiếm đoạt) nhưng vẫn thực hiện.
Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Thư Viện Pháp Luật