Vào nhà nghỉ với bạn gái, làm thế nào chứng minh không mua dâm?
Điều 3, Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 giải thích về hành vi mua bán dâm như sau: 1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. 3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm… Theo quy định này thì yếu tố "dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác" trả cho người bán dâm để được giao cấu là cơ sở để xác định việc mua, bán dâm. Theo điểm e Khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 quy định về việc cho thuê lưu trú: e) Cho thuê lưu trú: - Có nội quy của cơ sở kinh doanh lưu trú niêm yết tại nơi dễ thấy. - Phải ghi đầy đủ các thông tin của khách lưu trú vào sổ trước khi khách vào phòng nghỉ và thông báo lưu trú với cơ quan công an xã, phường, thị trấn sở tại trước 23 giờ trong ngày. Nếu khách đến lưu trú sau 23h thì vào sổ và thông báo cho cơ quan công an vào trước 8h sáng ngày hôm sau (kể cả khách nghỉ theo giờ). Trường hợp có nghi vấn liên quan đến an ninh, trật tự phải báo cáo ngay cho công an xã, phường, thị trấn. - Cơ sở kinh doanh nếu thông báo lưu trú cho cơ quan công an qua mạng Internet thì phải lưu trữ đầy đủ thông tin về khách đã lưu trú tại cơ sở để phục vụ công tác quản lý. - Trường hợp khách mang theo vũ khí, công cụ hỗ trợ, chất nổ phải yêu cầu khách xuất trình giấy phép sử dụng do cơ quan công an có thẩm quyền cấp và cơ sở kinh doanh phải có trách nhiệm bảo quản chặt chẽ. - Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: chứng minh nhân dân; hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú. Trường hợp khách đến lưu trú không có các loại giấy tờ trên thì khi cho khách vào lưu trú, chủ cơ sở phải thông báo ngay cho cơ quan công an phường, xã, thị trấn… Theo quy định vừa trích dẫn ở trên, khi đến nghỉ tại các nhà nghỉ hoặc khách sạn, bạn có trách nhiệm xuất trình một trong các giấy tờ như chứng minh nhân dân; hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp và cơ sở cho thuê lưu trú phải ghi đầy đủ các thông tin của khách lưu trú vào sổ trước khi khách vào phòng nghỉ và thông báo lưu trú với cơ quan công an xã, phường, thị trấn sở tại trước 23h trong ngày. Do đó, trong trường hợp cảnh sát vào kiểm tra phòng, bạn có thể chứng minh việc mình không mua bán dân bằng cách trình bày việc mình đã xuất trình các giấy tờ tùy thân cho quản lý khách sạn/nhà nghỉ và đưa ra các chứng cứ về việc hai bạn là người yêu như: cho biết họ tên của nhau, nghề nghiệp, quê quán, nơi ở… hoặc những thông tin cá nhân có liên quan khác. Khi kiểm tra nhà nghỉ, khách sạn, để xác định hai người khác giới ở trong cùng phòng có phải để mua bán dâm hay không, cơ quan chức năng sẽ áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Tuy nhiên, thông thường việc xác định sẽ dựa trên các yếu tố như thông tin cá nhân người bị kiểm tra, hiện trường, mục đích của việc ở chung phòng của hai người này, đặc biệt là thông tin về nhân thân do hai người cung cấp về nhau có trùng khớp nhau không?... Nếu thông tin do hai người cung cấp không trùng khớp chứng tỏ họ không biết về nhau mà chỉ mới gặp nhau để quan hệ tình dục (mua, bán dâm)... Như vậy, khi đến nghỉ tại nhà nghỉ, khách sạn, người đến nghỉ phải tuyệt đối tuân thủ quy định trên đây, trong đó có quy định phải xuất trình chứng minh nhân dân hoặc các giấy tờ tùy thân khác. Nếu bạn gái của bạn dưới 13 tuổi thì theo quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy trong trường hợp này, dù hai bạn có thuận tình thì bạn vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Hiếp dâm trẻ em. Nếu bạn gái bạn từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì theo quy định tại Điều 115 BLHS, bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “giao cấu với trẻ em” với khung hình phạt tù từ 1 năm đến 15 năm.
Thư Viện Pháp Luật