Vi phạm chế độ một vợ, một chồng
Tại Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC thì tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự. Đây là tội phạm xâm phạm trực tiếp đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng - một trong những nguyên tắc quan trọng của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, theo đó người đang có vợ, đang có chồng bị cấm kết hôn với người khác; đồng thời người chưa có vợ, chưa có chồng không được kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng, đang có vợ.
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng; hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát…
- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Trong trường hợp đã có quyết định của tòa án tuyên hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 BLHS mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.
Thư Viện Pháp Luật