1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế”.
Như vậy, trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện ra người nào không chịu đóng thuế đối với thu nhập từ việc cho thuê nhà thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 161 Bộ luật hình sự nêu trên.
Trong trường hợp số thuế trốn chưa đủ mức độ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đó sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, người đó còn bị Nhà nước truy thu thuế đối với phần thuế đã trốn cộng với khoản tiền phạt chậm nộp thuế theo quy định của pháp luật.