Nội dung thể hiện trong giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
Theo quy định tại khoản 1, Điều 66, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, “Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó.”
Theo Điều 67, Nghị định 158/2005/NĐ-CP, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được quy định cụ thể như sau:
“1. Người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định).
Trong trường hợp người yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ, có chồng, nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết, thì phải xuất trình trích lục bản án/Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử. Quy định này cũng được áp dụng đối với việc xác nhận tình trạng hôn nhân trong Tờ khai đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 18 của Nghị định này.
Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc viên chức Lãnh sự ký và cấp cho đương sự Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định).
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn xác minh là 5 ngày.
2. Việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Chương này phải được ghi vào Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để theo dõi.
3. Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kề từ ngày xác nhận.”
Như vậy, việc UBND phường X, xác nhận tình trạng hôn nhân là đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Theo nội dung xác nhận đã nêu, việc UBND xã Phước Hiệp xác nhận “chị Lan đã ly hôn vào tháng 10/2007, từ tháng 8/2008 ở địa phương chưa đăng ký kết hôn” có thể hiểu là đến thời điểm xác nhận chị Lan đã ly hôn và chưa đăng ký kết hôn với ai.
Hiện nay, pháp luật chỉ dừng lại ở việc quy định mẫu Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, trong đó có phần để cán bộ tư pháp phường xã ghi sự xác nhận tình trạng hôn nhân của người được xác nhận. Việc cán bộ tư pháp xác nhận như trường hợp đã hỏi là đúng với tình trạng hôn nhân của người được xác nhận.
Thư Viện Pháp Luật