Mặt khác, Điều 15 Luật Quốc tịch 2008 quy định: “Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam”.
Đối chiếu với quy định trên của pháp luật Việt Nam, thì con trai của bạn đương nhiên có quốc tịch Việt Nam (vì bạn và vợ bạn đang có quốc tịch Việt Nam) không phân biệt đứa trẻ đó được sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, theo quy định: “2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009), phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam” (Khoản 2, Điều 13 Luật Quốc tịch năm 2008).
Ngoài ra, chưa có quy định nào của pháp luật Việt Nam, quy định về việc người đang mang quốc tịch khác phải xin thôi quốc tịch Việt Nam. Ngoại trừ, công dân Việt Nam có đơn xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài (Điều 27 Luật Quốc tịch năm 2008 quy định: “1. Công dân Việt Nam có đơn xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài thì có thể được thôi quốc tịch Việt Nam”).