Cách ghi lý lịch tư pháp với người được xóa án tích
Điều 63 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án và được xóa án coi như chưa bị kết án. Trường hợp sau khi đã được xóa án tích mà phạm tội thì không bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Lý lịch tư pháp của người từng bị tòa kết án (dù đã hoặc chưa xóa án) được pháp luật quy định như sau:
Điều 2, Luật Lý lịch tư pháp nêu rõ, lý lịch tư pháp được hiểu là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của toà án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập hay quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp bị toà án tuyên bố phá sản.
Bộ luật này cũng quy định có 2 loại phiếu lý lịch tư pháp số 1 và 2. Theo đó, phiếu lý lịch tư pháp số 1 được cấp cho công dân Việt Nam, người nước ngoài đã và đang thường trú tại Việt Nam… khi có đơn yêu cầu. Ở phiếu này, tình trạng án tích được ghi như sau:
a) Người không bị kết án được ghi “không có án tích”. Trường hợp người bị kết án chưa đủ điều kiện được xóa án tích thì ghi “có án tích”, tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung;
b) Với người được xoá án tích và thông tin về việc xoá án tích đã được cập nhật vào Lý lịch tư pháp thì ghi “không có án tích”.
c) Người được đặc xá và thông tin về việc đặc xá đã cập nhật vào Lý lịch tư pháp sẽ ghi “không có án tích”.
Với Phiếu lý lịch số 2 (cấp cho cơ quan tố tụng để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử), tình trạng án tích được ghi như sau:
a) Người không bị kết án ghi là “không có án tích”;
b) Người đã bị kết án sẽ ghi đầy đủ án tích đã được xoá, thời điểm được xoá án tích và án tích chưa được xóa, ngày, tháng, năm tuyên án, số bản án, toà đã tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự, án phí, tình trạng thi hành án.
Trường hợp người bị kết án bằng các bản án khác nhau thì thông tin về án tích của người đó được ghi theo thứ tự thời gian.
Như vậy, phiếu lý lịch tư pháp số 1 ghi nhận bạn “không có án tích” còn phiếu số 2 vẫn thể hiện bạn là người từng bị kết án (dù bạn đã được xoá án). Tuy nhiên, phiếu số 2 chỉ là tài liệu lưu hành trong các cơ quan tố tụng chứ không cấp cho đương sự hay các cơ quan ngoài tố tụng. Do vậy, sẽ không gây ảnh hưởng đối với người được cấp.
Thư Viện Pháp Luật