Điều kiện để thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics

Chúng tôi là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistic (lô-gi-stíc) và dịch vụ lô-gi-stíc liên quan tới vận tải. Nay, chúng tôi dự định chuyển nhượng một phần vốn của công ty cho một đối tác Hàn Quốc. Đề nghị Quý báo tư vấn, các điều kiện và hạn chế đối với thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ này.

 

Căn cứ quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị định 140/2007/NĐ-CP, ngày 05/09/2007, quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhận kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc, thì:

1.     Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc chủ yếu ngoài việc đáp ứng các điều kiện: Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu, thì chỉ được kinh doanh các dịch vụ lô-gi-stíc khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây: a- Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%; b- Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%; hạn chế này chấm dứt vào năm 2014; c- Trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014; d- Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.

2.     Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên quan tới vận tải, ngoài việc tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam, thì chỉ được kinh doanh các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan tới vận tải khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây: a- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2012; b- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thủy nội địa thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; c- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định của Luật hàng không dân đụng Việt Nam; d- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; đ- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010; e- Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào