Một số quy định về học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên
Thực hiện Quyết định số 152 ngày 14/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và Thông tư số 23 ngày 28/4/2008 của liên bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động thương binh và Hã hội, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành như sau: Học sinh, sinh viên đang học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học, trừ học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang được hưởng chế độ học bổng chính sách theo QĐ số 82 ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh mức học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học theo QĐ 194 ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Mức học bổng trong một năm học được cấp đủ 12 tháng. Đối với các chương trình đào tạo có thời gian dưới 1 năm hoặc có thời gian học năm cuối không đủ 12 tháng thì học bổng được cấp theo số tháng thực học của năm đó. Kể từ ngày 1/1/2008, khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu chung thì mức học bổng chính sách được điều chỉnh theo tỷ lệ tương ứng với các quyết định điều chỉnh mức lương tối thiểu chung của Nhà nước, bảo dảm mức học bổng chính sách bằng 80% mức lương tối thiểu chung (hiện nay lương tối thiểu là 540.000đồng, mức học bổng bằng 80% mức lương tối thiểu là 432.000đồng). Có thể nhận học bổng chính sách hàng tháng qua thẻ ATM hoặc nhận tại cơ Sở giáo dục hoặc được cấp 2 lần trong một năm, mỗi lần cấp sáu tháng. Lần 1 cấp vào tháng 10, lần thứ 2 cấp vào tháng 3. Học sinh, sinh viên đã nhận học bổng chính sách mà tự thôi học hoặc bị kỷ luật buộc thôi học thì phải bồi hoàn toàn bộ số tiền học bổng đã nhận từ đầu khoá đến thời điểm thôi học cho cơ quan cấp học bổng. Trên đây luật sư đã nêu các quy định của pháp luật về những vấn đề bạn hỏi, chị vận dụng vào trường hợp của con mình.
Thư Viện Pháp Luật