Tình huống pháp lý về hợp đồng đã ký kết nhưng người thực hiện hợp đồng chết

10/5/2003, chủ DNTN A đột ngột qua đời. A có vợ là bà H. Sau đó bà H đã làm thủ tục đứng tên ĐKKD với tư cách là chủ DN và đổi tên thành DNTN H theo đúng quy định của pháp luật. Hai tuần sau, đại diện của công ty TNHH X tới thực hiện đúng hợp đồng mà chồng bà đã kí trước đây, nếu không phải trả cho công ty X 200 triệu đồng và lãi suất 3%/1 tháng. Bà H không đồng ý mà chỉ chấp nhận trả cho công ty X 200 triệu đồng. Vậy bà H làm như thế có đúng không?

Theo khoản 1 điều 141 Luật doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”.

Khoản 4 Điều 143 Luật doanh nghiệp “chủ doanh nghiệp tư nhân cũng chính là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân”.

Điều 636 BLDS: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.

Và tại khoản 1, điều 627 BLDS qui định: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Căn cứ vào những qui định trên của pháp luật, với tình huống của bạn thì khi ông A chết đi, DNTN A sẽ giải thể, đồng thời tài sản của DNTN A sẽ trở thành một phần TS thừa kế mà bà H (người thừa kế theo PL duy nhất) được nhận. Khi đó bà H sẽ phải thanh toán các nghĩa vụ tài sản của ông A (hợp đồng đã kí với công ty TNHH X) trong phạm vi tài sản mà bà đã thừa kế của chồng mình.

Theo như hợp đồng mà chồng bà đã ký kết với công ty TNHH X thì nếu không thực hiện đúng hợp đồng, phải trả cho công ty X 200 triệu đồng và lãi suất 3%/1 tháng. Tuy nhiên theo qui định của pháp luật dân sự về hợp đồng.Tại Điều 476 về lãi suất:

“1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Tại tời điểm năm 2003, lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước là 7,5%/ năm, ứng với lãi suất 0,625%/tháng tương ứng với mức lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 0,9375. Căn cứ vào đó có thể thấy hợp đồng của chồng bạn đã ký với công ty TNHH X đã bị vô hạn một phần.

Chính vì vậy, bản sẽ phải có nghĩa vụ trả 200 triệu đồng và lãi suất 0,625%/tháng trong phạm vi tài sản mà bạn đã thừa kế.

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào