Quy định về vắng mặt nơi cư trú
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 74) khi một người biệt tích sáu tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và có thể yêu cầu toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt quy định tại Điều 75 của Bộ luật này. Về quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú (Điều 75) quy định: Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho những người sau đây quản lý: Đối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý. Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý. Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý. Trong trường hợp không có những người được quy định tại Khoản 1 Điều này thì toà án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì toà án chỉ định người khác quản lý tài sản. Luật cũng quy định nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú (Điều 75): Người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú có các nghĩa vụ sau đây: Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình; bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng. Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của toà án. Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và phải thông báo cho toà án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Về tuyên bố một người mất tích: Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì toà án giải quyết cho ly hôn. Từ quy định nêu trên bạn nghiên cứu vận dụng.
Thư Viện Pháp Luật