Chính sách bảo vệ, phát triển rừng gắn với giảm nghèo
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 9/9/2015 về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020, cụ thể một số chính sách hỗ trợ như sau: + Hỗ trợ khoán bảo vệ rừng 400.000đ/ha/năm. Theo Nghị định, đối tượng rừng khoán bảo vệ được hỗ trợ gồm: Diện tích rừng Nhà nước giao cho ban quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ; rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho các công ty lâm nghiệp quản lý; diện tích rừng chưa giao, chưa cho thuê do UBND cấp xã quản lý. Hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn nêu trên được hỗ trợ tiền khoán bảo vệ rừng là 400.000đ/ha/năm, hưởng lợi từ rừng và thực hiện trách nhiệm bảo vệ rừng theo quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước với hạn mức diện tích rừng nhận khoán được hỗ trợ tối đa là 30 ha một hộ gia đình. Hộ gia đình thuộc đối tượng 1 nêu trên thực hiện bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng được giao có trồng bổ sung với rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên được hỗ trợ bảo vệ rừng là 400.000đ/ha/năm; hỗ trợ trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ theo thiết kế - dự toán, tối đa không quá 1.600.000đ/ha/năm trong 3 năm đầu và 600.000đ/ha/năm cho 3 năm tiếp theo. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. + Hỗ trợ đến 10 triệu đồng trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ. Nghị định cũng quy định rõ hỗ trợ trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ. Cụ thể, diện tích đất lâm nghiệp được quy hoạch phát triển rừng sản xuất đã giao ổn định, lâu dài cho hộ gia đình được hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu tiên để trồng rừng sản xuất bằng loài cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ. Mức hỗ trợ từ 5-10 triệu đồng/ha để mua cây giống, phân bón và chi phí một phần nhân công bằng tiền đối với trồng cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và thiết kế - dự toán. Hộ gia đình nghèo tham gia trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phòng hộ thì được trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị 15 kg gạo/khẩu/tháng tại thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự túc được lương thực. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mức và thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7 năm. + Được vay đến 50 triệu đồng không có tài sản bảo đảm để chăn nuôi gia súc. Căn cứ thiết kế - dự toán trồng rừng, ngoài số tiền được hỗ trợ quy định để trồng rừng sản xuất phát triển lâm sản ngoài gỗ, hộ gia đình được Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng NN-PTNT cho vay không có tài sản bảo đảm phần giá trị đầu tư còn lại tối đa là 15 triệu đồng/ha, lãi suất là 1,2%/năm. Thời hạn cho vay từ khi trồng đến khi khai thác chính theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng nhưng không quá 20 năm. Ngoài ra, hộ gia đình thuộc đối tượng nêu trên được Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng NN-PTNT Việt Nam cho vay không có tài sản bảo đảm để chăn nuôi trâu, bò, gia súc khác với hạn mức vay tối đa 50 triệu đồng, thời hạn cho vay tối đa 10 năm, lãi suất là 1,2%/năm. Trên đây là nững chính sách ưu đãi, gia đình nghiên cứu, vận dụng tại địa phương.
Thư Viện Pháp Luật