Xếp lương khi chuyển từ cán bộ xã sang công chức huyện
Chế độ lương với cán bộ, công chức xã
Từ tháng 5/1975 đến tháng 10/2003, cán bộ phường, xã hưởng phụ cấp sinh hoạt phí theo Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ về bổ sung chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã; Quyết định số 111/HĐBT ngày 13/10/1981 (thực hiện từ tháng 10/1981), Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (thực hiện từ ngày 1/9/1985) và các Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 46/1993/NĐ-CP ngày 23/6/1993, Nghị định số 50/1995/NĐ-CP ngày 26/7/1995, Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998). Theo đó, mức phụ cấp sinh hoạt phí bằng mức tiền cụ thể từ vài chục đồng, nâng dần lên vài trăm đồng, cao nhất là 270 ngàn đồng.
Từ tháng 11/2003, chế độ, chính sách đối với cán bộ phường, xã, thị trấn thực hiện theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ. Theo đó, đối với cán bộ chuyên trách (bầu cử) hưởng lương theo nhiệm kỳ, có 2 bậc; công chức chuyên môn hưởng lương ngạch bậc như công chức nhà nước.
Từ tháng 1/2010, chế độ, chính sách đối với cán bộ phường, xã, thị trấn thực hiện theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ. Cán bộ phường, xã, thị trấn được hưởng lương ngạch, bậc như công chức nhà nước; kể từ khi đảm nhiệm chức vụ, chức danh ở phường, xã, thị trấn và có bằng tốt nghiệp trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, được tính xếp vào bậc 1 của ngạch, sau đó cứ 2 năm đối với ngạch cán sự (trung cấp) hoặc 3 năm (đại học trở lên) được nâng lên một bậc.
Do chế độ tiền lương theo quy định của Chính phủ đối với cán bộ cấp xã rất thấp, không được nâng lương theo thời hạn như công chức nhà nước nên Thành uỷ, UBND thành phố có chủ trương cho cán bộ chuyên trách được hưởng chế độ phụ cấp tương đương lương công chức hành chính theo Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. Mức phụ cấp này được hưởng thực tế, giúp cán bộ cấp xã an tâm công tác.
Xếp lương khi bổ nhiệm công chức cấp huyện
Căn cứ vào lý lịch công chức và các quyết định xếp lương, nâng lương, quá trình công tác của bà Đỗ Thị Thu Vân ở quận Tân Bình như sau:
- Tháng 3/1984 - 3/1988: Thư ký văn phòng, nhân viên phụ trách Tiểu thủ công nghiệp, UBND phường 4, quận Tân Bình.
- Tháng 4/1988 - 4/2009: Uỷ viên Thư ký, Uỷ viên Văn phòng UBND phường 4, quận Tân Bình.
- Tháng 5/2009 - 6/2014: Phó Chủ tịch UBND phường 4, quận Tân Bình.
- Tháng 7/2014 đến nay: công tác tại Phòng Tư pháp, quận Tân Bình.
Trường hợp bà Vân, trong khoảng thời gian từ tháng 11/2003, giữ các chức vụ do bầu cử nên hưởng lương tương ứng với chức vụ từng thời gian (Phó Chủ tịch UBND phường, bậc 1: 1,95, bậc 2: 2,45) (Quyết định số 32479/QĐ-SNV ngày 1/7/2005 của Sở Nội vụ về việc xếp lương chức danh đối với cán bộ chuyên trách phường, xã, thị trấn).
Ngoài mức lương được hưởng tương ứng với chức vụ, bà Vân còn được hưởng chế độ phụ cấp lương; cụ thể, tại Quyết định số 608/QĐ-UBND ngày 16/12/2009 của UBND quận Tân Bình về việc nâng phụ cấp đối với cán bộ chuyên trách phường năm 2009, bà Vân được hưởng phụ cấp lương tương đương ngạch Chuyên viên, bậc 9, hệ số 4,98. Chế độ phụ cấp lương này không làm căn cứ để chuyển xếp lương sau này.
Từ tháng 1/2010, Sở Nội vụ căn cứ vào quá trình công tác và trình độ chuyên môn đạt được (Đại học), đã chuyển xếp lương đối với bà Vân tại Quyết định số 289/QĐ-SNV ngày 19/1/2011, từ bậc 2, hệ số 2,45, chuyển xếp vào ngạch Chuyên viên, bậc 6, hệ số 3,99, hưởng từ ngày 1/1/2010, mốc nâng bậc lương lần sau tính từ ngày 1/11/2007.
Đến thời điểm tháng 3/2015, bà Vân được xét chuyển cán bộ cấp xã thành công chức cấp huyện tại Quyết định số 1148/QĐ-UBND ngày 19/3/2015 của UBND thành phố và đến ngày 5/6/2015, Sở Nội vụ ban hành Quyết định số 465/QĐ-SNV bổ nhiệm vào ngạch công chức, ngạch Chuyên viên, bậc 8, hệ số 4,65, mốc nâng bậc lương lần sau tính từ ngày 1/11/2013 là phù hợp với quy định của Chính phủ.
Thư Viện Pháp Luật