BỘ
LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
|
Số 1633/LĐTBXH-TBXH
V/v chính sách cứu trợ xã hội
|
Hà Nội, ngày 28 tháng 05 năm 2003
|
Kính
gửi: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Năm 2002, mưa lũ, lụt, lốc đã xảy ra ở
34 tỉnh, thành phố làm cho 348 người chết, 313 người bị thương, 9733 nhà bị đổ,
trôi, 385.442 nhà ngập, 19.401 nhà bị hư hỏng, 64.304 ha lúa, hoa màu bị ngập.
Thiệt hại ước tính Khoảng 5.000 tỷ đồng. Đầu năm 2003, hạn hán đã làm cho
171.562 hộ (907 ngàn khẩu) bị thiếu đói.
Trước tình hình thiếu đói và thiên
tai, Chính phủ đã hỗ trợ 222,7 tỷ đồng và 11.250 tấn gạo cho các tỉnh bị thiệt
hại nặng đề cứu đói, ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất. Các địa phương
cũng đã chủ động huy động trên 56.783 triệu đồng, 2.314 tấn gạo, phương tiện
tàu thuyền, xuồng máy ... kịp thời cứu trợ cho nhân dân vùng bị ngập. Vì vậy,
năm 2002 không xảy ra tình trạng dân chết vì bị đói, hạn chế được thiệt hại, về
tài sản. Bên cạnh những địa phương làm tốt công tác phòng chống thiên tai, cứu
trợ kịp thời cho nhân dân như Đồng Tháp, Long An, An Giang, Kiên Giang, Lâm Đồng,
Hà Tĩnh, Nghệ An, Hà Giang, Lào Cai ... vẫn còn một số tỉnh lúng túng, bị động
khi thiên tai xảy ra.
Theo dự báo của Tổng cục Khí tượng Thủy
văn, năm 2003 thời Tiết diễn biến bất thường, phức tạp, khó lường. Đầu năm, rét
đậm xảy ra, một số nơi có tuyết rơi, miền Trung và Tây Nguyên bị hạn hán nặng nề,
trên các sông Bắc Bộ xuất hiện lũ không bình thường, cuối tháng 2 ở Bắc Bộ xuất
hiện một số ngày nắng nóng là hiện tượng hiếm thấy...
Để công tác phòng chống thiên tai có
hiệu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại về tính mạng, tài sản, đồng thời bảo đảm ổn
định đời sống của nhân dân, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề nghị Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện tốt một số việc
sau đây:
1. Đánh giá, rút kinh nghiệm công tác
phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu trợ xã hội năm 2002 và những
tháng đầu năm 2003 ở từng cấp, từng ngành, đặc biệt là những vùng đã xảy ra
thiên tai; xây dựng kế hoạch và các phương án cứu hộ, cứu trợ đảm bảo đời sống
nhân dân sinh một cách cụ thể, nhất là việc tổ chức thực hiện ở các cơ sở xã,
huyện thuộc vùng phân lũ và những vùng xung yếu nhằm kịp thời xử lý tình huống
đột xuất, hạn chế thiệt hại nhất về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
2. Khi thiên tai xảy ra trên diện rộng,
Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập Ban chỉ đạo vận động, tiếp nhận và phân phối
tiền, hàng cứu trợ do 1 đồng chí lãnh đạo Uỷ ban nhân dân làm trưởng Ban, các
Ban ngành, Đoàn thể tham gia, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội làm thường
trực Ban chỉ đạo có trách nhiệm tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ; chỉ
đạo thành lập các đội xung kích bằng các hình thức thích hợp để thực hiện cứu
trợ khẩn cấp, kịp thời cho nhân dân, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
vùng bị cô lập; chỉ đạo tổ chức vận động cứu trợ xã hội ở các cấp; thực hiện tốt
chế độ thống kê, báo cáo từ cơ sở đến Trung ương.
3. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng
xung yếu thường xảy ra lũ quét, vùng cửa sông, ven biển thường bị ngập sâu và đặc
biệt vùng có nguy cơ sạt lở, vùng phân lũ, chậm lũ phải có phương án tổ chức di
dời dân về nơi an toàn; có kế hoạch và vận động nhân dân củng cố nhà ở, dự
phòng lương thực, thực phẩm, chất đốt, thuốc men, các vật dụng thiết yếu khác;
quán triệt và thực hiện phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại
chỗ, vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ, hậu cần tại chỗ).
Những xã vùng sâu, vùng xa, đặc biệt
khó khăn, đề nghị UBND tỉnh bố trí một Khoản kinh phí làm Quỹ cứu trợ dự phòng
và giao cho UBND xã chịu trách nhiệm quản lý, cứu trợ kịp thời cho những gia
đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
4. Mức hỗ trợ:
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố sử dụng
nguồn kinh phí đảm bảo xã hội, quỹ dự phòng từ ngân sách của địa phương, nguồn ủng
hộ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung
ương, căn cứ vào tình hình thực tế ở từng địa bàn, mức độ thiệt hại của từng
gia đình để quyết định mức hỗ trợ như sau:
- Hộ có người chết: 1-2 triệu đồng/người
- Hộ có người bị thương nặng (phải
vào viện): 0.5 triệu đồng/người
- Hộ có nhà bị đổ, sập, trôi: 2-3 triệu
đồng/
- Nhà bị hỏng nặng: 1-1.5 triệu đồng/hộ
- Hỗ trợ lương thực: 10 kg gạo/người/tháng,
cứu trợ khẩn cấp
1 đến 2 tháng
5. Thực hiện đúng quy trình cứu trợ
xã hội đột xuất theo Nghị định 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 của Chính phủ,
Thông tư số 18/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/7/2000 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội, đảm bảo kịp thời, đúng đối tượng, đúng Mục đích, sớm khắc phục hậu quả về
đời sống dân sinh. Trường hợp do thiên tai nặng nề, xảy ra trên diện rộng, nguồn
kinh phí đảm bảo xã hội, quỹ dự phòng vẫn không đủ cứu trợ khẩn cấp cho dân, Uỷ
ban nhân dân cần huy động ngay các nguồn lực khác để cứu trợ kịp thời cho dân
và báo cáo ngay các cơ quan chức năng để trình Chính phủ bổ sung kịp thời kiên
quyết không để dân chết đói, rét do cứu trợ không kịp thời, do thiếu tinh thần
trách nhiệm của các cơ quan chức năng, Uỷ ban nhân dân các cấp.
a. Uỷ ban nhân dân cấp xã: Tiến hành
lập danh sách đối tượng cần cứu trợ, thông qua Hội đồng xét duyệt gồm Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Chủ tịch Hội đồng, thành viên Hội đồng gồm:
đại diện Mặt trận Tổ quốc, một số ban ngành; cán bộ lam công tác Lao động
Thương binh và xã hội làm ủy viên thường trực. Hội đồng xét duyệt phải kết luận
bằng biên bản và danh sách kèm theo.
Sau khi được Hội đồng xét duyệt thông
qua, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có công văn đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện xem xét quyết định, kèm theo công văn phải có biên bản của Hội đồng
xét duyệt, danh sách hộ gia đình, cá nhân đề nghị được cứu trợ; lập sổ tiếp nhận,
phân phối tiền, hàng, cứu trợ, tổ chức thực hiện cứu trợ trực tiếp, kịp thời đến
các đối tượng. Trong trường hợp phải cứu đói khẩn cấp, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã quyết đinh và tổng hợp báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
b. Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội
hoặc Phòng Tổ chức Lao động cấp huyện: Tổng hợp các đối tượng cứu trợ do Uỷ ban
nhân dân các xã đề nghị; căn cứ vào nguồn kinh phí cứu trợ của huyện và hướng dẫn
của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện quyết định
trợ cấp, cứu trợ; hướng dẫn các xã bị ngập lũ tổ chức thực hiện cứu trợ cho các
đối tượng.
3. Sở Lao động-Thương binh và Xã hội:
Tổng hợp danh sách đối tượng cứu trợ do Uỷ ban nhân dân các huyện bị ngập lũ đề
nghị; căn cứ vào kinh phí của tỉnh, trợ cấp của Trung ương, ủng hộ của các tổ
chức, cá nhân, lập phương án cứu trợ gửi Sở Tài chính - Vật giá, trình Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết đinh. Nếu nguồn tài chính trên không đủ thì tỉnh,
thành phố báo cáo Chính phủ (đồng thời gửi Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và
Bộ Tài chính) đề nghị Trung ương hỗ trợ.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề
nghị các tỉnh, thành phố bố trí cán bộ theo dõi nắm tình hình thiên tai xảy ra
trên địa bàn, chủ động đề xuất các chủ trương biện pháp phòng chống, khắc phục
hậu quả, cứu trợ kịp thời cho những người bị thiệt hại, thực hiện tốt những vấn
đề nêu trên và báo cáo kết quả về Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội./.
|
K/T
BỘ TRƯỞNG
BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
THỨ TRƯỞNG
Đàm Hữu Đắc
|