Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Số hiệu: 1660TM/KHTK Loại văn bản: Công văn
Nơi ban hành: Bộ Thương mại Người ký: Lê Danh Vĩnh
Ngày ban hành: 02/05/2002 Ngày hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

BỘ THƯƠNG MẠI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1660 TM/KHTK

Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2002

 

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC THÁNG 4 VÀ 4 THÁNG NĂM 2002

I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP KHẨU

1. Xuất khẩu hàng hoá

- Tháng 4 ước đạt 1.320 triệu USD, tăng 6,2% so với tháng 3 và tăng 1,6% so với cùng kỳ 2001.

- 4 tháng ước đạt 4.505 triệu USD, đạt 27,1% kế hoạch năm và bằng 91,4% cùng kỳ 2001. Trong đó: so với cùng kỳ 2001: các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 2.348 triệu USD, giảm 12,5%; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.157 triệu USD, giảm 4%.

Xuất khẩu 4 tháng đầu năm nổi lên một số vấn đề:

- Một số nông sản xuất khẩu giảm so cùng kỳ năm 2001: gạo đạt 795 ngàn tấn, giảm 42,5%; cà phê 291 ngàn tấn, giảm 24,6%; hạt tiêu đạt 26 ngàn tấn, giảm 22,7%; rau quả đạt 81 triệu USD, giảm 34,7%. Một số mặt hàng tăng so cùng kỳ năm 2001 như: chè, cao su,... riêng thuỷ sản đạt 448 triệu USD, tăng 6,1%.

- Một số hàng công nghiệp xuất khẩu giảm so cùng kỳ năm 2001 là: dầu thô đạt 5.668 triệu tấn giảm 2,3%, hàng điện tử và máy tính giảm 32%. Một số hàng công nghiệp xuất khẩu tăng so cùng kỳ năm 2001: dệt may 602 triệu USD, tăng 4,3%; giày dép 578 triệu USD, tăng 15,1%; thủ công mỹ nghệ 95 triệu USD, tăng 20,3%; than đá 2145 ngàn tấn, tăng 46,1%.

- Giá một số nông sản xuất khẩu cao su, cà phê, gạo... có tăng, nhưng kim ngạch không tăng nhiều. Giá xuất khẩu dầu thô diễn biến phức tạp, đầu tháng 4 lên đến 28 USD/thùng, nay giảm xuống 24 USD/thùng.

2. Nhập khẩu hàng hoá

- Tháng 4 ước đạt 1.380 triệu USD, xấp xỉ bằng tháng 3 và tăng 0,7% so với cùng kỳ 2001.

- 4 tháng nhập khẩu đạt kim ngạch 5.149 triệu USD, đạt 29,4% kế hoạch năm và tăng 3,1% cùng kỳ 2001. Trong đó: so với cùng kỳ 2001: các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 3.454 triệu USD, giảm 3,6%; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.695 triệu USD, tăng 19,9%.

Nhập khẩu 4 tháng đầu năm nổi lên một số vấn đề:

- So với cùng kỳ 2001, một số hàng tăng nhanh khối lượng là: ô tô dạng linh kiện lắp ráp: 47,6%, chất dẻo nguyên liệu 38,7%, giấy 37,9%, thép thành phẩm 37,2%, sợi các loại 27,1%, bông 15%, xăng dầu 2,4%; một số mặt hàng giảm khối lượng là: linh kiện lắp ráp xe gắn máy 72,6%, ô tô nguyên chiếc 34,1%, phôi thép 4,9%...

Nhập siêu 4 tháng đầu năm lên đến 644 triệu USD, bằng 14,3% kim ngạch xuất khẩu.

II. TỔNG QUAN VỀ LƯU THÔNG HÀNG HOÁ TRONG NƯỚC

Nhìn chung, so với cùng kỳ năm 2001, lưu thông hàng hoá trong nước tương đối ổn định và tăng trưởng; sức mua tăng, giá bán nông sản đã tăng (lúa, cà phê, mía cây...) và nhiều mặt hàng sản xuất trong nước có tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường nội địa cao hơn trước, nhất là nông sản thực phẩm có mức tiêu thụ khá.

Sau đây là một số tình hình chủ yếu.

1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ

Tháng 4, ước đạt 22,5 ngàn tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng 3. Ước 4 tháng đạt 90,1 nghìn tỷ đồng tăng trên 12,3% so với cùng kỳ.

Thành phố Hà Nội: tháng 4, ước đạt 4.200 tỷ đồng, bằng 98% so với tháng 3; 4 tháng đầu năm, đạt khoảng 18.500 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ 2001. Thành phố Hồ Chí Minh: tháng 4, ước đạt 5.100 tỷ đồng, bằng 97% so với tháng 3; 4 tháng đầu năm đạt khoảng 21.200 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ 2001.

Sức mua của dân cư tăng so cùng kỳ 2001, cả về chủng loại hàng hoá và thị hiếu tiêu dùng, nhất là hàng hoá cao cấp, hàng hoá có giá trị lớn (đang trở thành nhu cầu lớn, không phải hạn hẹp như trước đây).

Nhiều doanh nghiệp sản xuất đã và có xu hướng mở các cửa hàng mẫu để giới thiệu và tiếp cận người tiêu dùng; các liên doanh đưa ra nhiều mẫu mã hàng hoá cao cấp, hàng hoá nhập khẩu có giá trị lớn để nắm bắt thị hiếu tiêu dùng và thu hút khách hàng.

Tại TP. Hồ Chí Minh đã xuất hiện loại hình cửa hàng tự chọn, mở cửa sớm, bán đến khuya, tuy chưa nhiều và hàng hoá chưa phong phú song đã khuyến khích được tiêu dùng của đông đảo các tầng lớp dân cư.

2. Chỉ số giá tiêu dùng

- Chỉ số chung: tháng 4 bằng tháng 3;  tăng 2,5% so với tháng 12 năm 2001 và tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó chỉ số giá tiêu dùng ở khu vực nông thôn: giảm 0,1% so với tháng 3, tăng 2,6 % so với tháng 12 năm 2001 và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2001.

Trong 4 tháng đầu năm, nhìn chung, giá cả đang có xu hướng tăng lên, phù hợp với sự phát triển thị trường và lưu thông hàng hoá ở trong nước, đặc biệt là khu vực nông thôn, đến nay đã có sự tăng trưởng và bước đầu thấy khá ổn định (sức mua đã được cải thiện một phần chủ yếu do giá nông sản, thực phẩm tăng).

- Chỉ số giá tiêu dùng:

+ Một số nhóm hàng tăng nhanh so với cùng kỳ năm 2001 như: lương thực; 14,4%, thực phẩm: 6,6%, vật phẩm giáo dục: 2,2%, đồ uống và thuốc lá: 1,2%, hàng dệt may: 1%, thiết bị đồ dùng gia đình: 0,8%, nhà ở, vật liệu xây dựng: 3%.

+ Một số nhóm hàng giảm so với cùng kỳ năm 2001 như: phương tiện đi lại: 4,2%, dược phẩm y tế: 1%, văn hoá thể thao: 0,2%

3. Một số mặt hàng đáng lưu ý

Lương thực

Năm nay, thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (nắng hạn gay gắt tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long), đã tác động xấu đến năng suất và sản lượng lương thực.

Vụ lúa Đông - Xuân đã thu hoạch trên 90% diện tích, sản lượng tăng trên 400 ngàn tấn so với năm 2001; lúa hàng hoá khoảng 4,5 triệu tấn, có thể xuất khẩu trên 2 triệu tấn gạo.

Giá lúa tăng do giá gạo xuất khẩu tăng, tạo cơ hội tăng thu nhập cho nông dân; Nhà nước không phải mua tạm trữ hay các giải pháp bị động khác. Liên Bộ: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Thương mại, Ngân hàng, đang xây dựng cơ chế cho nông dân gửi thóc trong kho của Nhà nước hoặc tạm trữ tại nhà (theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Công Tạn).

Tại đồng bằng sông Hồng, gạo tẻ thường 3.500 - 3.700 đ/kg; Tại đồng bằng sông Cửu Long, gạo nguyên liệu từ 3000 - 3.400 đồng/kg.

Hàng năm cân đối lương thực luôn có một lượng gạo điều chuyển từ Nam ra Bắc (khoảng 200 ngàn tấn). Các tháng đầu năm nay, gạo chuyển ra Bắc có nhiều hơn (khoảng 300 - 400 ngàn tấn), đã ảnh hưởng đến nguồn hàng xuất khẩu.

Rau, quả

- Xuất khẩu sang Trung Quốc 4 tháng đầu năm tăng mạnh là: hoa quả tươi; Tuy nhiên một số mặt hàng rau tươi xuất khẩu tăng chậm như: cà chua, ngô bao tử, dưa chuột, đậu quả xanh, khoai tây... do chưa vào chính vụ thu hoạch. Những ngày cuối tháng 3, việc xuất khẩu dưa hấu bị ách tắc, do Trung Quốc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu và thực hiện Trung ương cấp giấy kiểm dịch (cấp chậm hơn địa phương). Đoàn công tác của Bộ Thương mại đã làm việc với các cơ quan liên quan của Trung Quốc bàn cách phối hợp cùng xử lý (tỉnh Quảng Tây đã cử 1 Cục phó nằm tại Bắc Kinh để trực tiếp giải quyết vấn đề giấy kiểm dịch).

- Hiện nay, một số loại rau, quả chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc như: xoài đã vào vụ thu hoạch và vải, nhãn... sắp vào vụ thu hoạch, đều dự kiến được mùa, nhiều doanh nghiệp lo lắng xảy ra tình trạng như với dưa hấu  vừa qua.

- Tại TP Hà Nội, có hiện tượng sử dụng hoá chất không đúng quy định với rau (rau muống), có nhiều trường hợp đã bị ngộ độc. Các cơ quan chức năng liên quan cần sớm có biện pháp hữu hiện khắc phục tình trạng này.

Cà phê

Niên vụ 2001/2002, do hạn hán, khả năng giảm sản lượng 20% so với niên vụ 2000/2001. Từ sau Tết, giá tăng nhanh, hiện nay, cà phê robusta loại 1 giá từ 5.500 - 5.600 đ/kg, tăng khoảng 1.200 đồng/kg, so với trước Tết, cơ hội này còn kéo dài hết tháng 5, khi các nước sản xuất lớn vào vụ thu hoạch.

Hiện nay, đáng lo ngại là trên thị trường xuất hiện tâm lý đầu cơ, găm giữ cà phê chờ giá lên khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc hoàn thành hợp đồng xuất khẩu đã ký kết (trên thị trường Đắk Lắk và TP Hồ Chí Minh đã xuất hiện tâm lý đầu cơ, tích trữ hàng chờ giá: mua vào khi giá cà phê 4500 - 5000 đg/kg; bán ra 8000 đg/kg; nhiều doanh nghiệp không mua được cà phê của dân, phải mua lại của các nhà đầu cơ khi thực hiện các hợp đồng đến hạn). Hiện tượng trên dẫn tới nghịch lý là, giá xuất khẩu và mua gom nội địa đều cao, nhưng thị trường không sôi động.

Thuỷ sản

Do chuyển đổi cơ cấu sản xuất quá nhanh, không theo quy hoạch và không kiểm soát được, nên tuy làm tăng sản lượng tôm, cá, nhưng tác động xấu đến chất lượng môi trường sinh thái và những rủi ro cho nuôi trồng thuỷ sản. Dịch bệnh đang xảy ra trên diện rộng (Sóc Trăng tôm bị chết 90%, Cà Mau 70%, Bạc Liêu 60%) gây thiếu nguyên liệu gay gắt, kéo dài, tác động xấu tới xuất khẩu (do tôm chiếm trên 40% kim ngạch).

Tình trạng sử dụng quá nhiều hoá chất và kháng sinh bị cấm đã và đang gây tác động xấu tới thị trường thuỷ sản Việt Nam, tình trạng ngộ độc diễn ra nhiều; cần được các cơ quan quản lý phối hợp xử lý triệt để.

Đường ăn

Thị trường 4 tháng đầu năm nổi lên hai vấn đề lớn: (1) Thiếu mía nguyên liệu nên tranh chấp nguyên liệu đẩy giá lên cao, mất khả năng cạnh tranh; (2) Đường nhập lậu khá phổ biến và công khai do có sự tiếp tay của các doanh nghiệp (mua đường lậu rồi đóng bao trong nhà máy tung ra thị trường).

Cân đối đường năm 2002, không căng thẳng cung và cầu, nhưng tình trạng tranh mua gom mía nguyên liệu, đã tác động đến sản xuất và lưu thông đường trong các tháng tới.

Xi măng

Từ cuối tháng 3 đến nay tiêu thụ tăng mạnh ở tất cả các địa phương trong cả nước. Riêng Tổng công ty Xi măng Việt Nam tiêu thụ tăng khoảng 32%. Giá bán tại các đại lý những ngày cuối tháng 4 dao động mức 790 - 860 ngàn đồng/tấn, tăng trên 10.000 đồng/tấn. Nguyên nhân chủ yếu do nhiều công trình gấp rút hoàn thành trước mùa mưa, trong khi vận chuyển của các nhà máy không kịp thời.

Hiện nay thuế nhập khẩu xi măng thành phẩm là 40%, song giá xi măng nhập khẩu bán ra vẫn thấp hơn xi măng sản xuất trong nước. Do vậy, cần tăng cường công tác quản lý giá xi măng tại 2 khu vực Hà Nội và TP. HCM. Tổng Công ty Xi măng cần có cơ chế quản lý giá bán tại các đại lý.

Phân bón

Đến đầu tháng 4, tồn kho giảm hơn 30% so với tồn kho đầu năm. Tiêu thụ 4 tháng đầu năm: NPK khoảng 500 nghìn tấn, urê khoảng 700 nghìn tấn, trong đó phục vụ sản xuất NPK khoảng 120 nghìn tấn. Nhập khẩu 4 tháng đầu năm nay có thấp hơn cùng kỳ, mặc dù giá nhập khẩu có giảm đi (u rê bình quân 98 - 100 USD/tấn), song do nhu cầu không tăng nhiều, do: giảm dùng cho chăm bón cây cà phê (vì vừa rớt giá, vừa giảm diện tích), cho cây lúa (vì có một số diện tích chuyển đổi cây trồng, sang nuôi tôm).

Phân bón sản xuất trong nước thấp hơn kế hoạch đề ra, việc tiêu thụ phần nội địa vẫn còn gặp khó khăn. Do giảm lượng sản xuất nên tác động giảm được lượng phân bón tồn kho ứ đọng kéo dài trong nhiều tháng cuối năm tại các nhà máy sản xuất như NPK. Dự báo sản xuất và nhập khẩu đảm bảo cung cấp đủ cho vụ Đông - Xuân và Hè - Thu.

Xăng dầu

Tình hình thị trường xăng dầu thế giới vẫn diễn biến phức tạp, giá xăng giảm 1,5 - 2 USD/thùng, xuống mức 29 - 29,5 USD/thùng, dầu DO và dầu hoả đã giảm xuống dưới mức 28USD/thùng và dầu FO ở mức giá 150 USD/tấn. Nhập khẩu bị lỗ, các doanh nghiệp nhập khẩu cầm chừng, tuy nhiên đến nay vẫn đảm bảo lực lượng cho các nhu cầu tiêu dùng. Bộ Tài chính đã liên tục điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu xăng dầu, cụ thể mức thuế hiện nay là: xăng thông dụng: 20%; xăng máy bay: 15%; dầu hoả Diesel: 20%, dầu khác 0%...

Các doanh nghiệp cho rằng, việc điều chỉnh thuế nhập khẩu chậm, việc bù lỗ cho các  năm trước vẫn chưa được xử lý dứt điểm, nên tháng 3 có hiện tượng: các doanh nghiệp đầu mối đã thay đổi mức hoa hồng bán hàng, một số cửa hàng xăng dầu tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã đóng cửa vì hoa hồng không đảm bảo cho kinh doanh, một số cửa hàng bán lẻ ở Tây Nguyên, miền Trung và Nam Bộ giảm lượng bán ra... gây xôn xao thị trường bán lẻ. Từ 29/3, Nhà nước tiếp tục giảm thuế suất thuế nhập khẩu, tình hình bán lẻ xăng dầu đã trở lại bình thường. Về xử lý giá xăng dầu, Tổ nhất trí như đề nghị của Bộ Chính trị tại công văn số 3736 (BTC đã trình Thủ tướng).

Bộ Thương mại chủ trương pha màu vào các loại xăng, dầu hoả nhằm hạn chế sự gian lận pha trộn giữa các loại xăng dầu có cùng màu sắc

Sắt thép

Giá thép trên thị trường thế giới tăng (do các nhà sản xuất cắt giảm sản lượng; nguồn thép nhập khẩu vào Trung Quốc tăng cao), nên nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm. Hiện nay, lượng tồn kho giảm so đầu năm khoảng 150.000 tấn (trong đó khu vực kinh doanh tồn kho khoảng 6 - 7 vạn tấn).

Thị trường trong nước nhìn chung ổn định. Tại miền Bắc, giá thép xây dựng tăng: thép cuộn tăng 100 - 250 đ/kg, thép cây tăng 50đ/kg. Miền Trung và Miền Nam ngược lại, giá một số lại thép giảm: thép cây giảm 180 đ/kg, thép cuộn giảm 330 đ/kg (mức hạ giá cao nhất từ trước đến nay); nhìn chung các loại thép nhập khẩu đều tăng giá bán, từ giữa tháng 2/2002 đến nay.

3. Bán hàng chính sách và trợ cước thu mua nông sản ở miền núi

Muối iốt

Tháng 4 ước bán 4.578 tấn, so với tháng 3 tăng 2%.

4 tháng ước bán 18.225 tấn, bằng 92,5%, cùng kỳ năm 2001. Tuy nhiên, có nhiều tỉnh đã tăng mức bán ra như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Sơn La...

Dầu Hoả

Tháng 4 ước bán 1.675 tấn, so với tháng 3 tăng 22,6%.

4 tháng ước bán 7.129 tấn, so với cùng kỳ năm 2001, tăng 20,3%. Tình hình tiêu thụ không có gì đặc biệt.

Phân bón

Năm 2002 có sự thay đổi trong bố trí kinh phí trợ giá trợ cước mặt hàng chính sách cho miền núi, mặt hàng phân bón cũng được bố trí kinh phí nhiều hơn, các mặt hàng không thiết thực được cắt giảm, do vậy 4 tháng đầu năm nay lượng phân bón bán cho vùng cao tăng gần 17% so với cùng kỳ 2001. Đến nay, các địa phương đã thực hiện xong việc ký kết hợp đồng cung ứng và thông báo công khai cho dân về định lượng được hưởng, về mức giá và cự lý vận chuyển được trợ cước giá tại vùng, trung tâm cụm xã.

Trợ cước mua gom nông sản

Kinh phí trợ cước năm nay tăng khoảng 15% so với năm 2001, ngay từ đầu năm các địa phương đã vận động các doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua gom nông sản với các nhà sản xuất, tạo thế ổn định trong sản xuất. Trong 4 tháng qua, tuy chưa vào chính vụ thu hoạch, song lượng nông sản mua gom trên địa bàn miền núi tăng khá so với cùng kỳ 2001, tuy nhiên, cá biệt vẫn có loại nông sản doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong mua gom, như mua mơ tại Cao Băng, Bắc Cạn.

Do nguồn ngân sách Trung ương cấp còn hạn chế, nhiều địa phương đã bổ sung thêm kinh phí trợ cước mua gom nông sản từ ngân sách của tỉnh.

Năm nay, thực hiện trợ cước, trợ giá mua gom nông sản, đã được cải tiến và thay đổi cách cung ứng (tăng số lượng cho những mặt hàng cần thiết và giảm thiểu những mặt hàng ít tác dụng), đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát thi công chi trả...đã có hướng dẫn thực hiện cụ thể để ràng buộc doanh nghiệp thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh mặt hàng chính sách miền núi.

4. Quản lý thị trường

Trong quý I, lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra, xử lý 14.471 vụ vi phạm, tổng số tiền thu phạt khoảng 27,7 tỷ đồng.

Tình hình chung trong 4 tháng đầu năm là:

Từ sau Tết, số vụ buôn lậu, buôn bán hàng giả và kinh doanh trái phép tuy có giảm so với đầu năm, nhưng vẫn diễn biến phức tạp.

Trong tháng 4, tại An Giang xuất hiện tình trạng một số loại hàng hoá sản xuất tại Việt Nam (đường, thuốc lá, bánh kẹo, nước giải khát...), xuất qua biên giới, gắn nhãn mác nước ngoài, rồi nhập khẩu trở lại thị trường nội địa. Hiện tượng hàng lậu, hàng giả không chỉ diễn ra tại các cửa khẩu, tại các thành phố lớn, mà hàng lậu xuất hiện trên nhiều địa phương trong cả nước.

Ở các địa phương như Đồng Tháp, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, TP. Hồ Chí Minh xuất hiện nạn tiền giả.

Ban chỉ đạo 127-TW, đã có văn bản số 0993/BCĐ 127 ngày 20/3/2002, triển khai các phương án: kiểm tra, kiểm soát thuốc lá điếu nhập lậu, bán trên thị trường nội địa; kiểm tra kinh doanh mặt hàng vải tại một số chợ đầu mối; việc thực hiện quy chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trên thị trường. Một số công việc chủ yếu đã và đang triển khai là:

Từ đầu tháng 4 đến nay, trên phạm vi cả nước, triển khai đồng loạt kiểm tra việc thực hiện quy chế ghi nhãn hàng hoá, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 2 địa bàn triển khai mạnh nhất và tính chung: ở các siêu thị, việc thực hiện cơ bản là tốt, còn ở các địa điểm khác thực hiện chưa tốt; một số mặt hàng chưa thực hiện tốt là: bánh kẹo, thực phẩm chế biến, đồ điện loại nhỏ (nhất là hàng nhập khẩu chưa có nhãn phụ tiếng Việt kèm theo);

Triển khai kiểm tra vải ngoại nhập khẩu tại các chợ đầu mối, việc triển khai đang gặp khó khăn, do không phân biệt được vải sản xuất trong nước và nhập khẩu; tại thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức họp liên ngành, bàn biện pháp ngăn, chặn đường nhập lậu.

Tại Hà Nội, thực hiện triển khai thí điểm kiểm tra thuốc lá ngoại bày bán trên thị trường, đến nay cơ bản tại các trung tâm phát luồng không còn bày bán công khai.

III. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ ĐỀ NGHỊ

Thị trường ổn định, không có biến đọng lớn ảnh hưởng xấu tới sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường, giá bán hàng hoá và dịch vụ ổn định; giá mua gom nông sản đã tăng có lợi cho nông dân và làm cho sức mua ở khu vực nông thôn tăng gần 4% so với cùng kỳ 2001.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của các địa phương trong 4 tháng đầu năm 2002 tăng hơn mức bình quân của năm 2001, đạt khoảng 12,3%. Một số mặt hàng tiêu dùng bán ra tăng hơn cùng kỳ như: gạo, thực phẩm, hàng ăn uống, giải khát, hàng mỹ phẩm, hàng may mặc, giày, dép...; một số mặt  hàng trước đây tiêu thụ chậm như thép, xi măng, phân bón đến nay đã được khắc phục dần, lượng bán ra cũng tăng nhiều hơn 4 tháng cùng kỳ; một số mặt hàng vẫn trong tình trạng tiêu thụ chậm như gạch ốp lát, kính xây dựng, vải, quần áo may sẵn, một số loại mỹ phẩm thông thường...

Thương nghiệp nhà nước chủ động trong việc tổ chức lưu thông các mặt hàng thiết yếu; củng cố và phát triển mạng lưới bán lẻ, nhất là ở khu vực miền núi, đảm bảo lưu thông các mặt hàng chính sách tới các cụm xã; đầu tư  phát triển siêu thị ở thành phố và đô thị; đi đầu thực hiện văn minh thương nghiệp và nâng cao chất lượng trong khâu bán lẻ, củng cố hệ thống chợ và chợ xanh tại 2 thành phố lớn: Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Thương nghiệp tư nhân và cá thể, tiếp tục có vị trí chủ yếu trong khâu bán lẻ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư; là lực lượng quan trọng trong tổ chức tiêu thụ nông sản, mua gom, tạm trữ nông sản xuất khẩu.

Nguyên nhân

Tác động làm tăng lưu thông hàng hoá:

- Sức mua đã tăng (tuy chưa nhiều), chủ yếu do chính sách tiền lương ổn định và giá một số nông sản tăng.

- Sản xuất trong nước và xuất, nhập khẩu cơ bản đã có sự phối hợp và đảm bảo cân đối đủ lực lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường nội địa và xuất khẩu.

- Chất lượng nhiều loại hàng hoá sản xuất trong nước được nâng cao, giả rẻ hơn hàng nhập khẩu, đã kích thích tiêu dùng, nhất là của dân cư.

- Nhà nước cho miễn thuế buôn chuyến của các hàng phục vụ Tết.

Tác động giảm lưu thông hàng hoá:

- Vướng mắc phát sinh trong triển các chính sách thương mại chậm được phát hiện và xử lý (quy định về hàng kinh doanh có điều kiện đối với cơ sở không đủ điều kiện theo quy định mới, nhưng đã tồn tại và hoạt động kinh doanh từ trước, thuế suất thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như xăng dầu, linh kiện thiết bị lẻ...)

- Tuy các thủ tục hành chính tuyên bố bãi bỏ khá nhiều song từng địa phương lại sinh ra nhiều thủ tục giấy tờ mới, không đồng bộ, các loại lệ phí không giảm mà nhiều nơi còn phát sinh thêm.

- Nhiều doanh nghiệp nhận xét tình hình hoàn thuế giá trị gia tăng đã hạn chế lớn tới kết quả kinh doanh: doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, nộp sớm, thoái thu chậm, phát sinh lãi ngân hàng; doanh nghiệp không nghiêm túc lại được thoái thu sớm (thậm chí có cả thoái thu khống), đã sinh ra môi trường cạnh tranh không bình đẳng.

- Mạng lưới chợ ở khu vực nông thôn chưa được đầu tư trên cơ sở quy hoạch thống nhất, chưa góp phần tăng nhanh khả năng tiêu thụ tại thị trường nông thôn.

Đề nghị

- Trong thời gian trước mắt và lâu dài, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành phối hợp với doanh nghiệp, xây dựng hệ thống kho chứa hàng nông sản tại cửa khẩu, chợ nông sản ở khu vực  đường biên và hình thành hệ thống đại lý, giới thiệu nông sản ở Trung Quốc làm nhiệm vụ tiếp thị và xúc tiến thương mại.

- Đối với Clinker để sản xuất xi măng: nên giảm thuế nhập khẩu  để góp phần đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo đủ nhu cầu tiêu dùng và góp phần giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, hạn chế nhập lậu xi măng đen từ biên giới phía Bắc.

- Đối với xi măng dầu: kiến nghị cho nghiên cứu phương pháp tính thuế mới, phù hợp với cơ chế thị trường, thay vì cơ chế tính thuế nhập khẩu như hiện nay, đồng thời cho thực hiện việc pha màu sản phẩm xăng dầu bán trên thị trường và có cơ chế quản lý phù hợp việc kinh doanh sang mạn, cấm các hình thức sang mạn để trốn lậu thuế, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng.

- Đề nghị Chính phủ sớm cho ý kiến chỉ đạo việc đưa phích, ấm pha trà bằng điện và danh mục quản lý hàng hoá hạn chế nhập khẩu (như phích nước - Ban chỉ đạo 127 Trung ương  đã trình).

- Tăng cường kiểm soát và khắc phục tình trạng nhập lậu đường ăn ở các tỉnh biên giới Tây Nam. Không cấp phép nhập khẩu đường dưới bất kỳ hình thức nào. Cấm các doanh nghiệp mua bán hoặc hợp thức tiêu thụ đường buôn lậu./.

 

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG, TỔ PHÓ TỔ NCXT VÀ ĐIỀU HÀNH THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC




Lê Danh Vĩnh

 

Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Công văn số 1660 TM/KHTK ngày 02/05/2002 của Bộ Thương mại về việc báo cáo tình hình thị trường trong nước tháng 4 và 4 tháng năm 2002

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


3.323

DMCA.com Protection Status
IP: 18.119.107.161
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!