|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
0657/TM-XNK
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Bộ Thương mại
|
|
Người ký:
|
Mai Văn Dâu
|
Ngày ban hành:
|
26/04/2002
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 0657/TM-XNK
V/v áp dụng thuế tuyệt đối đối với hàng nhập
khẩu
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2002
|
Kính
gửi:
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Tài chính
- Bộ Nông nghiệp và PTNT
- Bộ Công nghiệp
- Bộ Xây dựng
- Tổng cục Hải quan
|
Bộ Thương mại đã nhận được ý kiến
tham gia của các Bộ, ngành hữu quan về dự thảo "Đề án áp dụng phương pháp
tính thuế nhập khẩu theo giá trị tuyệt đối" do Bộ Thương mại soạn thảo. Có
4/6 Bộ, ngành hoàn toàn thống nhất với Bộ Thương mại, chỉ yêu cầu một số điều
chỉnh nhỏ. Riêng Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan có đặt ra một số vấn đề mang
tính nguyên tắc. Bộ Thương mại đã nghiêm túc nghiên cứu các vấn đề này và xin
được thống nhất lại với các Bộ, ngành như sau trước khi báo cáo Thủ tướng Chính
phủ:
1. Về nhu cầu, khả năng áp dụng
thuế tuyệt đối tại Việt Nam và giải pháp khắc phục các vướng mắc phát sinh:
Bộ Tài chính đề nghị Bộ Thương mại
làm rõ hơn nữa các vấn đề này. Theo Bộ Thương mại thì các vấn đề này được trình
bày khá kỹ tại khoản 1.3, II.1 và II.2 của đề án.
Bộ Thương mại nhất trí với Bộ Tài
chính về việc thuế tuyệt đối là dạng thuế kém công bằng hơn so với thuế phần
trăm. Tuy nhiên, như đã được trình bày rõ tại dự thảo đề án, thuế tuyệt đối chủ
yếu được dùng trong những trường hợp mà thuế phần trăm bị giảm tác dụng, tức là
tính công bằng chỉ còn trên danh nghĩa. Khi đó thuế tuyệt đối lại trở lên công
bằng hơn so với thuế phần trăm.
Theo Bộ Tài chính thì thuế tuyệt đối,
do độc lập với giá trị của hàng hoá, sẽ hạn chế tác dụng điều chỉnh của thuế nhập
khẩu, nhất là khi giá hàng nhập khẩu tăng cao. Quan điểm này có phần chưa hợp
lý. Sự độc lập với giá trị hàng hoá, về nguyên tắc, chỉ hạn chế tác dụng thu
ngân sách của thuế chứ không ảnh hưởng đến tác dụng điều tiết của thuế. Khi giá
cả hàng hoá nhập khẩu giảm xuống, khả năng bảo hộ của thuế tuyệt đối sẽ tăng
lên bởi nó được xây dựng trên cơ sở giá thành của sản xuất trong nước như sẽ được
trình bày dưới đây. Ngoài ra, với những mặt hàng thường xuyên bị khai man trị
giá tính thuế thì tác dụng "ngân sách" của thuế tuyệt đối lại
hơn hẳn so với thuế phần trăm. Vì vậy, nếu xét trên phạm vi dự kiến áp dụng,
không có cơ sở để cho rằng thuế tuyệt đối sẽ hạn chế tác dụng "điều chỉnh"
hay tác dụng "ngân sách" của thuế nhập khẩu.
2. Cơ sở xác định mức thuế tuyệt đối:
Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan nhận
thấy có nhiều khó khăn trong việc chuyển bảng giá tính thuế tối thiểu thành thuế
tuyệt đối. Nguyên nhân chủ yếu là do mức giá nhập khẩu hết sức khác nhau và
không ổn định. Mức thuế tuyệt đối, vì vậy, phải hết sức linh hoạt để không gây
khó khăn cho doanh nghiệp và thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Theo Bộ Thương mại, thuế tuyệt đối là
công cụ có thể thay thế cho bảng giá tính thuế tối thiểu nhưng việc đó không đồng
nghĩa với việc chuyển y nguyên bảng giá tính thuế tối thiểu thành thuế tuyệt đối.
Khi bảng giá tính thuế tối thiểu không còn thì thuế tuyệt đối là hình thức khả
dĩ nhất để đảm bảo nguồn thu tối thiểu cho ngân sách cũng như mức bảo hộ tối
thiểu cho sản xuất trong nước. Vì vậy, khi xây dựng mức thuế tuyệt đối, cách tiếp
cận đúng đắn nhất là xuất phát từ nhu cầu trong nước, không xuất phát từ giá nhập
khẩu và thuế suất phần trăm hiện hành. Cụ thể, với những mặt hàng cần bảo hộ, mức
thuế tuyệt đối sẽ được xây dựng trên cơ sở giá thành sản xuất bình quân trong
nước và nhu cầu bảo hộ thực tế (thí dụ, trứng gia cầm có giá thành là 800 đồng/quả,
ta cần bảo hộ ở mức 600 đồng/quả). Với những mặt hàng có nhu cầu bảo đảm nguồn
thu tối thiểu cho ngân sách thì mức thuế tuyệt đối có thể được xây dựng
theo phương pháp bình quân (thí dụ: lượng rượu mạnh nhập khẩu hàng năm là
200.000 lít, tương đương 10 triệu USD. Số thuế tối thiểu cần phải thu là 8 triệu
USD. Mức thuế tuyệt đối sẽ vào khoảng 40 USD/lít). Nên tiếp cận theo hướng này,
sẽ không xuất hiện nhu cầu "điều hành linh hoạt" thuế tuyệt đối và
"điều tra mặt hàng được bán giá thấp vào Việt Nam" như Bộ Tài chính đề
nghị.
3. Làm rõ sự kết hợp giữa thuế tuyệt
đối và thuế phần trăm.
Như đã trình bày tại dự thảo đề
án và phục lục minh hoạ kèm theo, thuế tuyệt đối có thể kết hợp với thuế phần
trăm để thu vào hàng nhập khẩu theo hai phương pháp chính:
- Tổng hợp (10% hoặc 5,25 USD/kg)
- Lựa chọn (10% hoặc 305 USD/tấn, tuỳ
theo số nào lớn hơn)
Các phương pháp kết hợp này sẽ giải
quyết được phần nào mối quan tâm của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan về tính
"công bằng" và tác dụng "ngân sách" của công cụ thuế nhập
khẩu. Bộ Tài chính đề nghị Bộ Thương mại làm rõ hơn nguyên tắc và phạm vi áp dụng
hình thức kết hợp này. Theo Bộ Thương mại thì đây là phần việc tiếp theo, mang
tính chi tiết hoá, khi vấn đề thuế tuyệt đối đã được chấp thuận trên nguyên tắc.
Phần việc này (bao gồm cả vấn đề tính thuế tuyệt đối theo USD hay VND), như đã
được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo sẽ do Bộ Tài chính chủ trì thực hiện không phải
Bộ Thương mại.
4. Thuế tuyệt đối và các cam kết
trong ASEAN:
Vấn đề đã được trình bày rõ trong dự
thảo đề án. Cụ thể, có những mặt bằng có thể áp dụng thuế tuyệt đối cho ASEAN nhưng
cũng có những mặt hàng không thể (và cũng không cần áp dụng thuế tuyệt đối
trong thương mại với ASEAN. Kính xây dựng, đồ sứ vệ sinh và gạch ốp lát là những
mặt hàng như vậy. Vì vậy, kiến nghị của Bộ Xây dựng là rất khó thực hiện. Trong
lĩnh vực này, có lẽ cần xác định lại đối thủ cạnh tranh chủ yếu (là các nước
ASEAN hay nước khác) để đưa ra nhận định chính xác hơn về phạm vi áp dụng thuế
tuyệt đối.
Bộ Thương mại nhận thấy thuế tuyệt đối
không liên quan đến các quản ngại về "chuyển luồng thương mại". Vấn đề
"chuyển luồng thương mại" đã được Bộ Tài chính đặt ra và cần nhắc kỹ
từ khi nước ta gia nhập ASEAN. Vì vậy, khi chỉ còn hơn 3 năm nữa là hoàn thành
CEPT, ta không nên đặt tại vấn đề này và cũng không nên tìm cách sử dụng thuế
tuyệt đối để phòng ngừa "chuyển luồng thương mại" như Bộ Tài chính đề
nghị.
5. Thuế tuyệt đối trong mối quan hệ
với các công cụ phi thuế quan khác và vấn đề định hướng thương mại:
Bộ Tài chính đề nghị xây dựng thêm
các công cụ phi thuế quan khác bởi "trong đàm phán quốc tế, mục tiêu xoá bỏ
hàng rào thuế quan sẽ được quan tâm nhiều hơn việc xoá bỏ hàng rào kỹ thuật phi
thuế quan". Ngoài ra, "với chính sách mở rộng ưu đãi thuế quan... việc
xây dựng các hàng rào thuế trong nhiều trường hợp sẽ không còn tính thực
thi".
Theo Bộ Thương mại, với mặt hàng công
nghệ và kỹ thuật như hiện nay, ta chưa thể xây dựng được những hàng rào kỹ thuật
tinh vi để vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa phù hợp vời nguyên tắc đối
xử quốc gia. Vấn đề Bộ Tài chính đặt ra là đúng nhưng trong thời điểm hiện tại
thì cần có các giải pháp tình huống phù hợp hơn.
Chính sách mở rộng ưu đãi thuế quan của
ta là trên cơ sở "có đi có lại". Vì vậy, ta nên và có thể đặt ra các
hàng thuế để nâng cao vị thế đàm phán. Đề nghị Bộ Tài chính xem xét và
cân nhắc thêm điểm này.
6. Kiến nghị
Do đã có 4/6 Bộ, ngành nhất trí với Bộ
Thương mại, các vấn đề cần làm rõ cũng đã được trao đổi lại nên nội dung của dự
thảo đề án sẽ được giữ nguyên để trình lên Thủ tướng Chính phủ.
Phần việc của Bộ Thương mại (xác định
nguyên tắc và phạm vi áp dụng thuế tuyệt đối) đã được thực hiện xong. Căn cứ
Quyết định số 908/QĐ-TTg ngày 26/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ và công văn số
976/CP-KTTH ngày 29/10/2001 của Chính phủ. Bộ Thương mại sẽ báo cáo Thủ tướng
Chính phủ giao các phần việc tiếp theo của Bộ Tài chính để Bộ Tài chính hoàn tất
thủ tục đưa thuế tuyệt đối vào áp dụng như trình sửa đổi luật thuế, trình sửa đổi
biểu khung thuế suất, thay đổi cách thể hiện của Biểu thuế nhập khẩu ..v.v)
Bộ Thương mại đề nghị các Bộ, ngành,
nếu có ý kiến khác với đề xuất trên đây thì gửi ý kiến tham gia về Bộ Thương mại
trước ngày 06/5/2002 để Bộ Thương mại tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Mong nhận được sự phối hợp của các Bộ,
ngành.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG
Mai Văn Dâu
|
Công văn số 0657/TM-XNK ngày 26/04/2002 của Bộ Thương mại về việc áp dụng thuế tuyệt đối đối với hàng nhập khẩu
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn số 0657/TM-XNK ngày 26/04/2002 ngày 26/04/2002 của Bộ Thương mại về việc áp dụng thuế tuyệt đối đối với hàng nhập khẩu
7.712
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng

Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|