Kính gửi:
|
- Viện kiểm sát Quân sự trung ương;
- Các đơn vị thuộc VKSND tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 1, 2, 3;
- VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Qua thực tiễn công tác tiếp công dân, giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, thuộc trách
nhiệm của ngành Kiểm sát nhân dân; VKSND tối cao đã hệ thống, nghiên cứu, giải
đáp, cụ thể như sau:
I. CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN
1. Trường hợp người đến khiếu nại,
tố cáo là người không biết chữ và bị khiếm khuyết về thính giác thì phải giải
quyết như thế nào? Có được từ chối tiếp theo quy định tại khoản
1 Điều 9 Luật Tiếp công dân hay không? Theo khoản 3 Điều 6
Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC- BNN&PTNN
ngày 05/9/2018, có quy định trường hợp trực tiếp đến khiếu nại và không thể tự
viết đơn... Đề nghị có quy định cụ thể về trường hợp này?
Giải đáp: Khoản 1 Điều 22 Bộ
luật Dân sự năm 2015 (BLDS) quy định: “Khi một người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa
án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”. Theo đó, một người bị khiếm
thính và không biết chữ không đương nhiên bị coi là mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi nếu không có quyết định của tòa án tuyên bố người
này bị mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, trường hợp người khiếu nại, tố cáo
bị khiếm thính và không biết chữ (không thể tự viết đơn) nếu không có quyết định
của Tòa án tuyên bố người này bị mất năng lực hành vi dân sự, thì không được từ
chối, mà phải tiếp công dân theo quy định trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như
tiếp công dân trong tố tụng hình sự, thực hiện khoản 3 Điều 6 và
điểm b khoản 1 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC- BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN
ngày 05/9/2018 (Thông tư liên tịch 02/2018), quy định việc phối hợp thi hành một
số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về khiếu nại, tố cáo
với sự có mặt của người chứng kiến, biên bản phải có điểm chỉ của họ và chữ ký
của người chứng kiến.
2. Việc ghi âm, ghi hình trong công tác tiếp công dân: Luật
Tiếp công dân năm 2013 và Quy chế số 51[1] chưa quy định cụ thể về trường hợp quay phim, chụp
ảnh, ghi âm trong công tác tiếp công dân và chế tài xử lý việc công dân cố tình
quay phim, chụp ảnh, ghi âm?
Giải đáp: Hiện nay pháp luật chưa quy định về
việc ghi âm, ghi hình trong công tác tiếp công dân, do đó khi công dân đề nghị
được ghi âm, ghi hình hoặc tự ý ghi âm, ghi hình thì cán bộ tiếp công dân cần
thực hiện linh hoạt, phù hợp thực tế. Cán bộ tiếp công dân có thể tham khảo
kinh nghiệm xử lý sau đây:
Trường hợp người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh có đề nghị được ghi âm, ghi hình bằng thiết bị của cá nhân họ hoặc họ
tự ghi âm ghi hình trong quá trình tiếp dân thì người tiếp công dân yêu cầu người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ mục đích của việc ghi âm, ghi
hình. Đồng thời giải thích đơn vị tiếp công dân đã có thiết bị ghi âm, ghi hình
và việc sử dụng hình ảnh, âm thanh từ việc ghi âm, ghi hình không đúng pháp luật
có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nội dung giải thích và mục đích của
việc ghi âm, ghi hình phải được ghi vào biên bản tiếp công dân.
Trường hợp tại nơi tiếp công dân đã gắn thiết bị
ghi âm, ghi hình tự động thì người tiếp công dân kiểm tra thiết bị trước khi thực
hiện việc tiếp công dân. Trường hợp tại nơi tiếp công dân không gắn thiết bị
ghi âm, ghi hình tự động thì khi xét thấy cần thiết phải ghi âm, ghi hình việc
tiếp công dân, người tiếp công dân báo cáo, đề nghị lãnh đạo đơn vị cử cán bộ hỗ
trợ việc ghi âm, ghi hình trước khi thực hiện việc tiếp công dân.
Sản phẩm của ghi âm, ghi hình (băng, đĩa, file) phải
được bảo quản, lưu trữ để phục vụ công tác khai thác, sử dụng khi cần thiết;
không cung cấp sản phẩm ghi âm, ghi hình của đơn vị tiếp công dân cho công dân.
3. Đề nghị hướng dẫn về trường hợp công dân trực tiếp đến gửi
đơn kèm tài liệu là dữ liệu điện tử như ghi âm, ghi hình... thì việc tiếp nhận
được thực hiện như thế nào?
Giải đáp: Trường hợp công dân trực tiếp đến
gửi đơn kèm tài liệu là dữ liệu điện tử như ghi âm, ghi hình thì người tiếp
công dân thực hiện theo Điều 12 và Điều 20 Quy trình tiếp công
dân trong ngành Kiểm sát nhân dân, đề nghị công dân mô tả chi tiết thông
tin, chứng cứ đó để để mở dữ liệu kiểm tra, đối chiếu (nếu có phương tiện để kiểm
tra) và viết Giấy biên nhận. Trường hợp không thể kiểm tra, đối chiếu do không
đủ điều kiện về cơ sở, vật chất thì ghi rõ theo trình bày của người gửi đơn là
bản sao vào Giấy biên nhận, không kiểm tra tình trạng tài liệu.
4. Việc từ chối tiếp công dân: Khoản 3 Điều 9 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định cán bộ tiếp
công dân có quyền từ chối tiếp trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo về vụ
việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng
dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Thực tế có trường hợp đã có
thông báo chấm dứt giải quyết, nhưng người khiếu nại, tố cáo vẫn liên tục đến
khiếu nại mà cán bộ tiếp dân không thể từ chối việc tiếp. Vấn đề này cần có hướng
dẫn cụ thể?
Giải đáp: Pháp luật quy định cán bộ tiếp
công dân có quyền từ chối tiếp công dân trong một số trường hợp cụ thể (Điều 9 Luật Tiếp công dân), nhưng chưa có quy định cấm công dân
khiếu nại kéo dài. Do vậy, để xử lý trong trường hợp này cán bộ tiếp dân cần nắm
rõ nội dung vụ việc bị khiếu nại, tố cáo, nhân thân của người khiếu nại, tố
cáo; mục đích là đòi quyền lợi hay bị họ bị xúi giục, kích động để từ đó đưa ra
phương án xử lý phù hợp trong từng tình huống cụ thể.
5. Chưa có chế tài xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Ví dụ: Một số trường hợp người nộp đơn khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh gây mất trật tự trong buổi tiếp công dân nhưng vẫn
chưa có quy định cụ thể nào xử lý.
Giải đáp: Đối với những trường hợp vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tiếp công dân, tùy từng trường hợp cụ thể pháp luật đã
quy định các hình thức xử lý. Tuy vậy, để đảm bảo thủ tục thì cán bộ tiếp công
dân phải thực hiện đầy đủ theo Quy trình tiếp công dân trong ngành Kiểm sát
nhân dân[2]. Trường
hợp công dân gây rối trật tự tại nơi tiếp công dân, người tiếp công dân phối hợp
với bảo vệ nơi tiếp công dân, Cảnh sát bảo vệ hoặc công an xã, phường thị trấn
tại nơi tiếp công dân lập biên bản ghi nhận sự việc; báo cáo Viện trưởng cấp
mình để đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm quy định về trật tự công cộng
theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình hoặc khởi tố
hình sự nếu hành vi gây rối, chống đối của người đó cấu thành tội phạm.
6. Điều 5 của Quy
chế số 51 quy định nhiệm vụ của các đơn vị liên quan khi tiếp công dân. Khi
các đơn vị này không thực hiện đúng theo nhiệm vụ được quy định trong Quy chế
thì thực hiện như thế nào?
Giải đáp: Trường hợp các đơn vị có liên quan
không thực hiện việc phối hợp tiếp công dân theo đúng nhiệm vụ được quy định
trong Quy chế số 51 thì đơn vị chuyên trách báo cáo lãnh đạo VKS phụ trách để
có ý kiến chỉ đạo thực hiện nghiêm các quy định của Luật Tiếp công dân cũng như
quy định của ngành Kiểm sát. Việc xử lý trách nhiệm trong hoạt động thực hiện
nhiệm vụ công vụ thuộc thẩm quyền của Viện trưởng VKS.
II. CÔNG TÁC PHÂN LOẠI, XỬ LÝ
ĐƠN
1. Trường hợp công dân tiếp tục
khiếu nại do quyết định giải quyết khiếu nại lần hai vẫn chưa giải quyết hết nội
dung khiếu nại hoặc chưa đúng, thì khi nhận được loại đơn này phải xử lý thế
nào?
Giải đáp: Quyết định giải quyết khiếu nại lần
2 là quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật, khi có đơn đề nghị xem xét lại
thì từng trường hợp cần được phân loại xử lý như sau:
- Trường hợp công dân khiếu nại quyết định giải quyết
khiếu nại do chưa giải quyết hết nội dung thì chuyển đơn đến VKSND có thẩm quyền
đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đó để xem xét, giải quyết bổ sung nội
dung còn thiếu;
- Nếu khiếu nại tiếp do quyết định giải quyết khiếu
nại đã có hiệu lực pháp luật chưa đúng hoặc thuộc cả hai trường hợp (vừa chưa
giải quyết hết nội dung khiếu nại vừa chưa đúng) thì VKS cấp trên căn cứ vào Điều 14 Quy chế số 51 để tiến hành kiểm tra lại quyết định giải
quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật. Trình tự, thủ tục kiểm tra được thực
hiện theo Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm tra quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp (ban hành kèm theo Quyết định số 546/QĐ-VKSTC
ngày 03/12/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao).
2. Trường hợp người có đơn khiếu nại
nhưng quá thời hiệu khiếu nại thì có được xem xét giải quyết theo trình tự như
đơn đề nghị không? Ban hành công văn trả lời hay chỉ ban hành thông báo về việc
không thụ lý đơn khiếu nại do hết thời hiệu?
Giải đáp: Theo quy định của khoản
6 Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011, đơn khiếu nại khi hết thời hiệu là một
trong các trường hợp không thụ lý giải quyết, trừ trường hợp có lý do chính
đáng theo Điều 9 của Luật này. Khi đó, cơ quan tiếp nhận trả
lại đơn khiếu nại và ban hành văn bản thông báo không thụ lý cho người khiếu nại
và nêu lý do theo Điều 27 Luật này. Tuy nhiên, trong trường
hợp nội dung đơn có vấn đề cần được xem xét, trả lời thì VKS xem xét và ban
hành văn bản trả lời cho người khiếu nại.
Đối với trường hợp đã giải quyết khiếu nại lần đầu
nhưng người khiếu nại gửi đơn khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền quá thời hạn
quy định nếu đáp ứng đủ điều kiện để kiểm tra theo Điều 14 Quy
chế số 51 thì VKS có thẩm quyền tiến hành kiểm tra lại Quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật theo Quy trình số 546.
3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo khi cán bộ bị khiếu nại, tố cáo đã nghỉ công tác hoặc chuyển công tác
khác hoặc đảm nhiệm vị trí cao hơn (khi ban hành quyết định tố tụng là cấp phó,
nhưng đến khi có khiếu nại là cấp trưởng).
Giải đáp: Nội dung này đã được giải đáp tại
Công văn số 355/VKSTC-V12 ngày 25/01/2019 của VKSND tối cao, vấn đề này đã được
quy định tại khoản 3 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018, cụ thể
như sau:
“Điều 12. Nguyên tắc xác định thẩm quyền
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời
gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn
là cán bộ, công chức, viên chức được xử lý như sau:
a) Trường hợp người bị tố cáo là người đứng đầu
hoặc cấp phó của người đứng đầu đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác
mà vẫn giữ chức vụ tương đương thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên
trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi
vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên
trực tiếp của cơ quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo phối hợp giải quyết;
b) Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác
sang cơ quan, tổ chức khác và giữ chức vụ cao hơn thì do người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo chủ trì giải quyết; người đứng đầu
cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp
luật phối hợp giải quyết.
Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác
sang cơ quan, tổ chức khác và là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đó thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của
cơ quan, tổ chức đó chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã quản
lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật phối hợp giải quyết;
c) Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác
sang cơ quan, tổ chức khác mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm
b khoản này thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại
thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo phối hợp giải quyết;
d) Trường hợp người bị tố cáo không còn là cán bộ,
công chức, viên chức thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố
cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu
cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp giải quyết.”
Đối với khiếu nại, hiện tại pháp luật chưa có quy định
cụ thể về thẩm quyền giải quyết trường hợp người bị khiếu nại đã về hưu hoặc
chuyển công tác khác, nhưng có thể tham khảo quy định của Luật Tố cáo năm 2018
(nêu trên) để xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với trường hợp này.
Trường hợp người bị khiếu nại đảm nhiệm vị trí cao hơn (ví dụ khi ban hành quyết
định tố tụng là Phó Viện trưởng, nhưng khi có khiếu nại quyết định tố tụng đó
thì đã là Viện trưởng), theo quy định pháp luật, Viện trưởng vẫn có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại quyết định tố tụng của Phó Viện trưởng. Tuy nhiên, để bảo
đảm tính khách quan thì loại đơn khiếu nại này nên chuyển đến VKS cấp trên trực
tiếp để giải quyết.
4. Đề nghị hướng dẫn trình tự phân
loại, xử lý, thời hạn giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu.
Giải đáp: Vấn đề này đã được giải đáp tại
Công văn số 355/VKSTC-V12 ngày 25/01/2019 như sau:
“Loại đơn này chưa được quy định cụ thể về thủ tục,
thẩm quyền, thời hạn giải quyết trong các văn bản luật, trừ loại đơn đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được quy định rõ trong các đạo luật tương
ứng với mỗi lĩnh vực của hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, vấn đề này đã đề cập
trong các đợt tập huấn trước, trên tinh thần: nếu những đơn đề nghị, kiến nghị,
phản ánh, yêu cầu có liên quan đến quyết định, hành vi, chủ trương, chính sách,
chức năng, nhiệm vụ của Ngành thì VKS có liên quan phải tiếp nhận, xem xét, giải
quyết và được xác định là đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS đó. Đối với
việc giải quyết, cần có sự linh hoạt trong quá trình thực hiện, tùy thuộc vào
tính chất của từng loại đơn, ưu tiên những loại đơn nhạy cảm (ví dụ: đơn bức
xúc, kéo dài, vượt cấp, liên quan đến nhiệm vụ chính trị, có sự chỉ đạo của cơ
quan, người có thẩm quyền hoặc được dư luận, báo chí quan tâm...), cụ thể:
- Về thẩm quyền giải quyết: nếu nội dung đơn
liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKS nào thì VKS đó xem xét, giải quyết; nếu
thấy nội dung đơn phức tạp hoặc chưa rõ về thẩm quyền giải quyết thì báo cáo
xin ý kiến VKS cấp trên hoặc cấp ủy cùng cấp.
- Về thủ tục giải quyết: nếu vụ việc đơn giản
thì Viện trưởng VKS giao một đơn vị có nhiệm vụ tương ứng với nội dung đơn để
tham mưu giải quyết; nếu vụ việc nhạy cảm, phức tạp thì có thể vận dụng quy
trình trong thủ tục giải quyết khiếu nại hoặc tố cáo để giải quyết đảm bảo tính
thận trọng, khách quan, có cơ sở vững chắc (việc vận dụng này là linh hoạt,
không phải là bắt buộc và không bị giới hạn bởi luật).
- Về thời hạn giải quyết: tùy tính chất vụ việc
mà Viện trưởng quyết định về tiến độ và thời gian giải quyết cho phù hợp”.
5. Hoạt động phân loại, xử lý đơn
ban đầu của Cơ quan điều tra có phải là hoạt động tư pháp hay không? Nếu có khiếu
nại, tố cáo thì giải quyết theo quy định của văn bản pháp luật nào?
Giải đáp: Hoạt động phân loại, xử lý đơn ban
đầu của Cơ quan điều tra nhằm xác định là đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh hay là tố giác, tin báo về tội phạm, khác với hoạt động phân loại tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định tại Điều 39
Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố (ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của
Viện trưởng VKSND tối cao, viết tắt là Quy chế số 11). Theo đó, phân loại tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện sau khi tiếp nhận tố
giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố và được xác định là hoạt động tư
pháp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì kiểm sát hoạt động tư pháp là
hoạt động của VKSND được thực hiện từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, tức là từ khi Cơ quan điều tra xác định được đó là tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và tiếp nhận theo quy định của BLTTHS.
Do đó, hoạt động phân loại, xử lý đơn ban đầu của Cơ quan điều tra chưa thuộc
phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS.
Trường hợp có khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt
động phân loại, xử lý đơn ban đầu của Cơ quan điều tra thì thẩm quyền, trình tự,
thủ tục giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo.
6. Đề nghị hướng dẫn phân loại, xử
lý đơn khiếu nại, tố cáo kiểm sát viên tham gia xét xử vụ án hành chính
Giải đáp: Theo quy định tại Điều
190 Luật TTHC năm 2015, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án hành chính,
Kiểm sát viên có nhiệm vụ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án và phát quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Như vậy,
hoạt động của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm là hoạt động tố tụng.
Nội dung phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải
quyết vụ án được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 27 Thông tư
liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao
và TAND tối cao, quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành
một số quy định của Luật tố tụng hành chính (Thông tư liên tịch số 03). Cụ thể,
Kiểm sát viên phân tích, đánh giá về nội dung quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đối chiếu
quy định của pháp luật để phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, ý kiến của
Kiểm sát viên được thể hiện bằng văn bản có chữ ký của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa. Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật TTHC năm
2015, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên chỉ là một trong những căn cứ để Hội
đồng xét xử quyết định việc giải quyết vụ án.
Để phân loại, xử lý đơn thì cần phải xác định việc
Kiểm sát viên tham gia, phát biểu quan điểm tại phiên tòa có phải là đối tượng
của khiếu nại, tố cáo hay không? Cần xem xét trong các trường hợp cụ thể sau
đây:
- Nếu đơn khiếu nại, tố cáo Kiểm sát viên có hành
vi vi phạm pháp luật tố tụng hành chính tại phiên tòa như không thực hiện, thực
hiện không đầy đủ hoặc không đúng quy định của Luật TTHC, quy chế nghiệp vụ của
Ngành về kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Ví dụ: Thành phần Hội đồng
xét xử hoặc người tham gia tố tụng không đúng theo quy định của pháp luật nhưng
Kiểm sát viên vẫn đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án hoặc trong quá
trình xét hỏi, Kiểm sát viên có lời nói xúc phạm người tham gia tố tụng... thì
VKS thụ lý khiếu nại, tố cáo để giải quyết theo thẩm quyền; trình tự, thủ tục
giải quyết theo quy định tại Chương XXI Luật TTHC năm 2015;
- Nếu đơn có tiêu đề khiếu nại hoặc tố cáo nhưng thực
chất là không đồng ý với nội dung ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải
quyết vụ án thì xác định không phải là đơn khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành
chính, đây là loại đơn kiến nghị, phản ánh; VKS tiếp nhận xem xét và thông báo
cho người gửi đơn biết (không thụ lý, giải quyết theo trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại, tố cáo).
7. Đề nghị hướng dẫn phân loại, xử
lý đơn khiếu nại thông báo không kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; khiếu nại
kháng nghị của VKS có được thụ lý, giải quyết theo trình tự giải quyết khiếu nại
trong hoạt động tư pháp không?
Giải đáp: VKS là cơ quan duy nhất tham gia tất
cả các giai đoạn tố tụng; hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng
thuộc VKS được thể hiện qua hành vi tố tụng và quyết định tố tụng. Tuy vậy,
không phải tất cả các khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của VKS bị
khiếu nại đều được xem xét giải quyết theo Chương khiếu nại, tố cáo.
- Đối với khiếu nại Thông báo không kháng nghị: Thực
chất đây là loại đơn tiếp tục đề nghị kháng nghị. Do vậy, để giải quyết được nội
dung, bản chất của loại việc này thì phải xem xét phân loại, giải quyết theo
trình tự, thủ tục theo Quy trình tiếp nhận, phân loại, thụ lý, xử lý và giải
quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm (Ban hành kèm theo Quyết
định số 201/QĐ-VKSTC ngày 20/5/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao, viết tắt là
Quy trình số 201).
Nếu giải quyết theo Chương khiếu nại, tố cáo thì rất
khó khăn vì thời hạn giải quyết chỉ có 15 ngày để rút hồ sơ nghiên cứu khẳng định
đúng, sai.
- Đối với khiếu nại kháng nghị của VKS được phân loại,
xử lý, giải quyết theo chương tương ứng (Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm)
như sau:
+ Trường hợp việc khiếu nại là có căn cứ thì tùy
thuộc giai đoạn tố tụng (Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm) và lĩnh vực đã
kháng nghị (hình sự, dân sự, hành chính) người được phân công nghiên cứu, giải
quyết đơn thuộc VKS đã kháng nghị căn cứ quy định tại Điều 342,
Điều 381, Điều 403 BLTTHS; Điều 284, Điều 335, Điều 357
BLTTDS; Điều 218, Điều 265, 286 Luật TTHC (đây là các
điều luật quy định tại chương tương ứng) để báo cáo, đề xuất với người có thẩm
quyền kháng nghị của VKS cấp mình thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị; đồng
thời, trả lời cho người khiếu nại biết.
+ Trường hợp việc khiếu nại không có căn cứ thì trả
lời người khiếu nại biết, chờ kết quả giải quyết của Tòa án có thẩm quyền.
8. Xử lý đơn phô tô khiếu nại, tố
cáo Kiểm sát viên do các cơ quan khác chuyển đến, trường hợp có đơn tố cáo nặc
danh, đơn không có chữ ký tên, hay đơn để là tập thể khu phố để tố cáo những
hành vi vi phạm làm ảnh hưởng công trình công cộng, lợi ích Nhà nước... kèm
theo đơn họ cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh vụ việc.
Giải đáp: Đơn tố cáo Kiểm sát viên hoặc công
chức khác trong nội bộ ngành Kiểm sát được xác định là nguồn thông tin giúp cho
việc quản lý cán bộ công chức trong hoạt động công vụ nói chung cũng như hoạt động
tư pháp nói riêng.
- Đối với đơn do các cơ quan khác chuyển bản phô tô
đến VKS. Về nguyên tắc, theo quy định của Luật Tố cáo, khi nhận được đơn tố cáo
không thuộc thẩm quyền thì cơ quan nhận đơn phải chuyển toàn bộ đơn và tài liệu
gửi kèm cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Do vậy, khi nhận được
đơn, nếu là đơn phô tô do cơ quan có thẩm quyền chuyển thì đề nghị cơ quan đã
chuyển đơn chuyển lại đơn bản gốc để chuyển đến đơn vị có trách nhiệm tham mưu
Viện trưởng giải quyết.
- Đối với đơn không hợp lệ (mạo danh, không có
tên...) thì không giải quyết theo quy trình giải quyết tố cáo mà được chuyển đến
đơn vị có thẩm quyền giải quyết vụ án, vụ việc liên quan (nếu là tố cáo trong
hoạt động tư pháp) hoặc đến đơn vị tham mưu Viện trưởng về công tác quản lý
công chức để có thông tin phục vụ công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra đối với
công chức hoặc tổ chức cán bộ.
9. Điều 37 Luật Tố
cáo quy định việc tố cáo tiếp, giải quyết vụ việc tố cáo tiếp; nhưng quy định
trong tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,
tố cáo chỉ giải quyết 01 lần, không quy định việc tố cáo tiếp. Nhưng trên thực
tế, người tố cáo không đồng ý với kết quả giải quyết lần đầu có đơn tố cáo tiếp
thì phải xử lý ra sao?
Giải đáp: Phạm vi điều chỉnh của Luật Tố cáo
là các quan hệ pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm
pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật khác về
quản lý nhà nước (Điều 1 Luật Tố cáo). Còn phạm vi điều chỉnh
của các đạo luật về tư pháp là tố cáo và giải quyết tố cáo trong hoạt động tư
pháp của những người có chức danh tư pháp (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, Chấp
hành viên...) các đạo luật về tư pháp không quy định việc giải quyết tố cáo tiếp.
Do vậy, không xem xét giải quyết tố cáo đối với nội dung tố cáo đã được cơ
quan, người có thẩm quyền giải quyết mà người tố cáo không đưa ra chứng cứ mới.
Trường hợp người tố cáo đưa ra chứng cứ mới làm thay đổi nội dung vụ việc thì
thẩm quyền giải quyết vẫn là cơ quan người có thẩm quyền giải quyết đã giải quyết
trước đó vì pháp luật không quy định cơ quan tư pháp cấp trên có thẩm quyền giải
quyết tố cáo tiếp đối với văn bản giải quyết của cấp dưới (cần phân biệt thẩm
quyền giải quyết và thẩm quyền kiểm tra việc giải quyết tố cáo).
Trong quá trình xem xét thụ lý giải quyết tố cáo
trong hoạt động tư pháp cần chú ý chỉ thực hiện quy định về thủ tục giải quyết
theo Luật tố cáo đối với trường hợp pháp luật về tư pháp chưa quy định thủ tục
giải quyết tố cáo và có dẫn chiếu theo quy định của pháp luật về tố cáo. Ví dụ:
Điều 513 BLTTDS quy định “Thủ tục giải quyết tố cáo được
thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”. Còn thẩm quyền giải quyết
thì thực hiện theo quy định BLTTDS.
Những tố cáo đối với nhiệm vụ, công vụ của công chức
thuộc các cơ quan tư pháp không liên quan đến hoạt động tư pháp thì được giải
quyết theo quy định của Luật Tố cáo.
10. Về khiếu kiện kéo dài: Việc nhận
thức, trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận công dân
còn hạn chế; một số vụ việc mặc dù đã được VKS giải thích, giải quyết nhiều lần
nhưng công dân vẫn cố tình khiếu nại vượt cấp, phản ánh không đúng sự thật, người
khiếu nại, tố cáo không chấp hành các quyết định, kết luận giải quyết đúng quy
định pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, không đồng thuận với kết quả giải quyết
mà tiếp tục gửi đơn đến nhiều nơi, gây áp lực với cơ quan, tổ chức và người có
thẩm quyền; có thái độ không đúng mực, không tôn trọng cán bộ, công chức nhưng
chưa có giải pháp để giải quyết vấn đề này?
Giải đáp: Pháp luật chưa có quy định cấm
công dân khiếu nại, tố cáo kéo dài, do vậy phải tùy vào từng trường hợp cụ thể
để có xử lý phù hợp. Trường hợp, người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã được giải
quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, rà soát,
thông báo bằng văn bản nhưng vẫn tiếp tục gửi đơn thì cơ quan có thẩm quyền xếp
lưu đơn.
11. Trong thực tiễn, VKS tiếp nhận
đơn của người khiếu nại, tố cáo và xử lý chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Sau đó, lại tiếp tục nhận được đơn từ các nguồn khác chuyển đến như (VKS cấp
trên, cơ quan nhà nước khác...) thì những đơn được chuyển đến sau, VKS theo đúng
quy định phải làm phiếu chuyển đơn và giấy báo tin gửi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết. Vì vậy, đề nghị hướng dẫn thêm nội dung: Đối với những đơn khiếu nại, tố
cáo có nội dung tương tự những đơn VKS tiếp nhận, xử lý đơn thì có thể tiến
hành lưu đơn để theo dõi. Khi có kết quả giải quyết thì thông báo kết quả đến
cơ quan, tổ chức đã chuyển đơn.
Giải đáp: Khi tiếp nhận đơn khiếu nại, tố
cáo không phải trong hoạt động tư pháp và thuộc thẩm quyết giải quyết của cơ
quan khác, VKS chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền và thông báo cho cơ quan,
cá nhân đã chuyển đơn biết việc chuyển đơn (chỉ thực hiện một lần, nếu tiếp tục
nhận đơn thì VKS lưu đơn). Việc thông báo kết quả giải quyết thuộc trách nhiệm
của cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp đơn thuộc trách nhiệm giải quyết hoặc kiểm
sát của Ngành thì VKS có thẩm quyền phải có trách nhiệm xử lý, giải quyết và
thông báo, báo cáo kết quả nếu trường hợp phải thông báo, báo cáo.
12. Đương sự không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng VKS cấp tỉnh đối với hành vi tố tụng
của KSV tại phiên tòa thì thẩm quyền giải quyết tiếp theo (lần 2) thuộc VKSND cấp
cao hay VKSND tối cao?
Giải đáp: Căn cứ các khoản
2, 3 Điều 504 BLTTDS năm 2015 và khoản 1 Điều 2 Quy chế tổ chức hoạt động của
VKSND cấp cao (ban hành kèm theo Quyết định số 222/QĐ-VKSTC ngày 17/6/2020 của
Viện trưởng VKSND tối cao) thì VKSND cấp cao là cấp trên trực tiếp của
VKSND cấp tỉnh về công tác kiểm sát xét xử. Do vậy, việc khiếu nại đối với quyết
định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải
quyết của Viện trưởng VKSND cấp cao.
II. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO THUỘC THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
A. TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÌNH
SỰ
1. Bị can không có đơn kêu oan nhưng ông, bà;
cha mẹ; vợ hoặc chồng; anh, chị, em ruột của người đó liên tục kêu oan thay bị
can thì có giải quyết hay không?
Giải đáp: Theo quy định tại khoản
1 Điều 469 BLTTHS: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết
định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bị can là người chịu tác động trực tiếp bởi quyết định,
hành vi tố tụng, biết rõ hành vi vi phạm đã thực hiện và sự việc phạm tội đã xảy
ra trong thực tế khách quan, có năng lực trách nhiệm hình sự có khả năng quyết
định việc thực hiện quyền khiếu nại. Vì vậy, chỉ khi bị can khiếu nại (nêu rõ
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng nào) thì mới xác định là đơn khiếu nại
(thể hiện qua đơn hoặc được ghi ý kiến vào tài liệu hợp pháp được lập trong quá
trình tố tụng); các trường hợp còn lại, khi nhận được đơn thì xử lý, giải quyết
theo thủ tục đơn kiến nghị, đề nghị, phản ánh.
Ví dụ: Bị can không có đơn kêu oan nhưng ông, bà;
cha mẹ; vợ hoặc chồng; anh, chị, em ruột của người đó liên tục kêu oan thay bị
can, không chấp nhận Quyết định khởi tố bị can đã được VKS phê chuẩn thì Kiểm
sát viên cần trực tiếp làm việc với bị can, giải thích để bị can quyết định việc
thực hiện quyền khiếu nại.
- Nếu bị can không kêu oan, nhận tội thì VKS không
thụ lý đơn và thông báo cho người gửi đơn biết lý do không thụ lý.
- Nếu bị can khiếu nại, kêu oan, VKS thụ lý giải
quyết nội dung khiếu nại của bị can đồng thời xem xét, trả lời nội dung đơn của
thân nhân bị can theo trình tự của tố tụng hình sự và thông báo kết quả cho
thân nhân bị can biết.
2. Bị can đề nghị Cơ quan điều tra trưng cầu
giám định lại, Cơ quan điều tra ra Thông báo không chấp nhận đề nghị của Bị
can. Trường hợp này Bị can khiếu nại thì có thụ lý để giải quyết khiếu nại theo
quy định tại Chương XXXIII (khiếu nại, tố cáo trong tố hình
sự) hay không?
Giải đáp: Theo quy định tại Điều
60, Điều 211, Điều 214 BLTTHS thì Bị can có quyền đề nghị Cơ quan tiến hành
tố tụng trưng cầu giám định, giám định lại. Trường hợp Bị can không đồng ý với
kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra thì có quyền khiếu nại theo quy định tại
Điều 175 BLTTHS.
Điều 175 BLTTHS quy định:
“1. Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu, đề
nghị về những vấn đề có liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi
trách nhiệm của mình giải quyết yêu cầu, đề nghị đó và báo cho họ biết kết quả.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, đề nghị thì Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời
và nêu rõ lý do.
2. Trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu
nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của
Bộ luật này.”
Như vậy theo quy định trên thì Bị can có quyền khiếu
nại đối với Thông báo về việc không chấp nhận đề nghị trưng cầu giám định lại.
Việc giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương
XXXIII của BLTTHS.
3. Tại điểm đ khoản 1 Điều 7
Thông tư liên tịch số 02/2018 quy định người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại được gia hạn thời hạn xác minh (nhưng thời hạn gia hạn xác minh không vượt
quá thời hạn giải quyết khiếu nại); song BLTTHS không quy định việc gia hạn. Một
số ý kiến cho rằng có sự mẫu thuẫn giữa quy định của BLTTHS và Thông tư liên tịch;
Giải đáp: Việc gia hạn thời hạn xác minh là
thao tác nghiệp vụ để thực hiện việc giải quyết khiếu nại trong thời hạn do
BLTTHS quy định, do vậy, không có mẫu thuẫn giữa BLTTHS với Thông tư liên tịch
về vấn đề này. Cần phân biệt thời hạn xác minh và thời hạn giải quyết (thời hạn
xác minh nằm trong thời hạn giải quyết và không vượt quá thời hạn giải quyết).
4. Trong thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu (07 ngày) có nội
dung đối thoại, nhưng người khiếu nại có thể do trở ngại khách quan mà không kịp
đến VKS để đối thoại. Đến khi VKS đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại,
người khiếu nại mới đến để yêu cầu đối thoại thì có tiến hành thủ tục đối thoại
nữa không?
Giải đáp: Việc đối thoại có thể tiến hành
trong quá trình giải quyết khiếu nại. Do vậy, trước khi ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại nếu xét thấy cần thiết thì người có thẩm quyền giải quyết (hoặc
người được phân công nhiệm vụ tham mưu giải quyết) tổ chức đối thoại giữa người
khiếu nại và người bị khiếu nại. Trường hợp VKS đã ban hành quyết định giải quyết
thì không tiến hành đối thoại nữa. Bởi lẽ, đối thoại không phải là thủ tục bắt
buộc; khi VKS có thẩm quyền đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là đã
có đầy đủ căn cứ, việc đối thoại sau khi quyết định giải quyết là không cần thiết
và không có giá trị.
Tuy vậy, trường hợp người khiếu nại có căn cứ mới
có thể làm thay đổi nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại, thì VKS đã giải
quyết lần đầu báo cáo VKS có thẩm quyền giải quyết tiếp theo để có biện pháp xử
lý phù hợp.
5. Quy định về thời hiệu khiếu nại
tại khoản 2 Điều 471 BLTTHS và Điều 502
BLTTDS quy định: “Trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu
thì thời gian có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào
thời hiệu". Việc xác định những trường hợp nào được xem là lý do bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan để không tính vào thời hiệu khiếu nại để làm cơ
sở cho việc xác định chính xác thời hiệu khiếu nại nhưng hiện nay vẫn chưa có
hướng dẫn cụ thể.
Giải đáp: Việc xác định những trường hợp nào
được coi là lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan có thể tham khảo các
quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định
về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi. Theo đó, lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan được hiểu
là những lý do ngoài ý chí chủ quan của người khiếu nại. Khi đánh giá lý do bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan phụ thuộc vào chủ quan của người đánh giá,
song phải có căn cứ. Ví dụ do thiên tai, bão lụt, ốm đau mà người khiếu nại
không thể thực hiện được việc khiếu nại trong thời hiệu quy định v.v...
6. Đối với Điều 476 BLTTHS về
thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định tố tụng của Phó Viện trưởng,
mặc dù BLTTHS có quy định rõ những trường hợp quyết định tố tụng do Phó Viện
trưởng ký, khi có đơn khiếu nại thì theo quy định tại điểm này thì do Viện trưởng
giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng thực tiễn cũng thường xảy ra những trường hợp
Phó Viện trưởng “ký thay”, như vậy có xem là Viện trưởng đã ký hay không? Khi bị
khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết là cấp nào, do đó cần hướng dẫn rõ ràng, cụ
thể hơn về vấn đề này là: trường hợp nào là Phó Viện trưởng ký thay là thực hiện
thẩm quyền giải quyết của Viện trưởng cùng cấp, trường hợp nào Phó Viện trưởng
ký thay khi có khiếu nại là thuộc thẩm quyền của VKS cấp trên trực tiếp giải
quyết.
Giải đáp: Theo quy định tại khoản
3 Điều 41 BLTTHS thì: “Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ
quy định tại điểm b khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát không được
giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của mình”. Như vậy, nếu
quyết định tố tụng do Phó Viện trưởng ký là theo nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện
trưởng quy định tại khoản 3 Điều 41 thì Viện trưởng có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại theo khoản 1 Điều 476; nếu quyết
định tố tụng bị khiếu nại là thẩm quyền của Viện trưởng nhưng được Phó Viện trưởng
ký thay do phân công nội bộ thì được coi là Quyết định của Viện trưởng và do
VKSND cấp trên giải quyết theo khoản 2 Điều 476 BLTTHS.
7. Trường hợp người bị tạm giữ, tạm
giam khiếu nại theo Điều 470 BLTTHS năm 2015 (các hành vi,
quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại) thì có tiến hành đối thoại được không?
Nếu cho tiến hành đối thoại thì đối với các bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm
giam có khiếu nại thì thủ tục tiến hành giải quyết như thế nào, đề nghị được hướng
dẫn cụ thể để áp dụng trong thực tiễn.
Giải đáp: Đối với người tạm giữ, tạm giam: Đối
thoại trong giải quyết khiếu nại là một trong những hoạt động thuộc quy trình
giải quyết khiếu nại, là thủ tục cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, góp phần phòng tránh oan sai; tuy không phải thủ tục bắt buộc
nhưng trường hợp thấy phải tiến hành đối thoại mới sáng tỏ được nội dung khiếu
nại thì phải đối thoại. Do đó, tùy trường hợp cụ thể mà người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại quyết định thực hiện việc đối thoại; nếu tiến hành đối thoại với
người đang bị tạm giữ, tạm giam thì đơn vị chủ trì giải quyết khiếu nại phối hợp
với đơn vị nghiệp vụ có liên quan để tổ chức đối thoại.
8. Chưa có hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với
Thông báo về việc không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại?
Giải đáp: Thông báo về việc không thụ lý giải
quyết đơn khiếu nại là văn bản thể hiện hoạt động trong giai đoạn phân loại, xử
lý đơn của các cơ quan Nhà nước nói chung và VKS nói riêng, đây không phải là
hoạt động tư pháp. Sau khi phân loại, nếu xác định đơn thuộc thẩm quyền giải
quyết nhưng không đủ điều kiện thụ lý theo quy định tại Điều 11
Luật Khiếu nại (đơn trong lĩnh vực hành chính) và Điều 5
Thông tư liên tịch số 02/2018 (đơn trong lĩnh vực tư pháp), VKS ban hành
Thông báo về việc không thụ lý. Khi có khiếu nại đối với Thông báo không thụ
lý, VKS căn cứ quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra VKSND
(ban hành kèm theo Quyết định số 192/VKSTC-TTr ngày 15/5/2019 của Viện trưởng
VKSND tối cao) để xác định thẩm quyền giải quyết.
9. Tại Điều 475
BLTTHS quy định khiếu nại quyết định của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (CQĐT)
do Thủ trưởng CQĐT giải quyết. Tuy nhiên, trong trường hợp Thủ trưởng CQĐT đã
chuyển công tác, đồng thời chưa có quyết định ủy nhiệm đối với Phó Thủ trưởng
CQĐT thì trong trường hợp này thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần thứ nhất là của
Viện trưởng VKS cùng cấp đúng hay sai? Hoặc trường hợp CQĐT chưa có Thủ trưởng
và cũng không có quyết định ủy nhiệm cho Phó Thủ trưởng CQĐT thì giải quyết như
thế nào?
Tại khoản 3 Điều 36 BLTTHS
quy định Phó Thủ trưởng CQĐT không được giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi
quyết định của mình. Tuy nhiên, khi Thủ trưởng CQĐT vắng mặt đã ủy quyền cho
Phó Thủ trưởng CQĐT thực hiện nhiệm vụ, thì trường hợp này thẩm quyền giải quyết
khiếu nại là của Viện trưởng VKS cùng cấp đúng hay sai?
Giải đáp: Thủ trưởng CQĐT là người đứng đầu,
có thẩm quyền cao nhất của Cơ quan điều tra đó trong hoạt động tố tụng cũng như
giải quyết khiếu nại, tố cáo; trường hợp chưa có Thủ trưởng CQĐT, nếu có khiếu
nại về hành vi, quyết định tố tụng của Phó Thủ trưởng tại thời điểm có khiếu nại
thì Viện trưởng VKS cùng cấp giải quyết để đảm bảo tính khách quan; nếu có tố
cáo thì Thủ trưởng CQĐT cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết.
10. Trong thực tế xảy ra một số trường hợp khi công dân gửi
đơn tố giác, tin báo tội phạm, Cơ quan điều tra tiến hành thụ lý, xác minh, giải
quyết tin báo, xác định không có dấu hiệu tội phạm nên ra quyết định không khởi
tố vụ án hình sự nhưng không gửi quyết định này cho công dân mà chỉ gửi thông
báo về việc không khởi tố. Công dân không nhất trí và có đơn khiếu nại thông
báo không khởi tố vụ án hình sự?
Giải đáp: Trường hợp Cơ quan điều tra đã thụ
lý tố giác tin báo, sau đó ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ban
hành thông báo về việc không khởi tố cho người có đơn mà bị khiếu nại về thông
báo không khởi tố thì xác định đó là khiếu nại việc không khởi tố, được giải
quyết theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền được quy định tại Điều
475 BLTTHS.
11. Việc ban hành Quyết định đình
chỉ việc giải quyết khiếu nại trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
hiện nay chưa có hướng dẫn áp dụng. Căn cứ tại điểm e, khoản 3,
Điều 13 Quy chế số 51 thì chỉ ban hành quyết định đình chỉ việc giải quyết
khiếu nại trong trường hợp Người khiếu nại rút đơn khiếu nại.
Giải đáp: Trường hợp quyết định tố tụng bị
khiếu nại đang được xem xét lại do vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì
ban hành văn bản trả lời là vụ án đang được trả hồ sơ, để điều tra bổ sung, sau
khi có kết quả điều tra bổ sung, nếu Người khiếu nại không đồng ý với quyết định
tố tụng nêu trên thì thực hiện quyền khiếu nại của mình; trường hợp nội dung
khiếu nại không trùng với nội dung trả hồ sơ, có tính độc lập thì vẫn giải quyết
theo quy định.
12. Trường hợp Viện kiểm sát nhận
đơn khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng CQĐT, VKS đang xem
xét để thụ lý giải quyết (chưa ra văn bản thụ lý), sau đó Thủ trưởng CQĐT thu hồi
quyết định giải quyết khiếu nại bị khiếu nại nêu trên nhưng người khiếu nại
không rút đơn thì VKS có thụ lý giải quyết không? Trường hợp sau khi VKS đã thụ
lý đơn, Thủ trưởng CQĐT thu hồi quyết định giải quyết khiếu nại thì giải quyết
như thế nào?
Giải đáp: Trường hợp CQĐT thu hồi quyết định
bị khiếu nại thì hiệu lực pháp luật của quyết định đó không còn, cũng có nghĩa
là đối tượng khiếu nại không còn, VKS không tiếp tục giải quyết. Tuy nhiên, do
người khiếu nại không rút đơn cho nên không thuộc trường hợp ra quyết định đình
chỉ, cần ban hành văn bản trả lời người khiếu nại biết việc CQĐT đã thu hồi quyết
định giải quyết khiếu nại mà Người khiếu nại đang khiếu nại, do vậy VKS không tiếp
tục giải quyết khiếu nại đối với vụ việc nêu, đề nghị Người khiếu nại theo dõi
kết quả giải quyết lại của CQĐT.
13. Tại Điều 12
Quy chế số 51 quy định thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại trong hoạt
động tư pháp “1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự được thực
hiện theo quy định tại Chương về khiếu nại, tố cáo Bộ luật Tố tụng hình sự, gồm:
khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của,...” Cũng tại
Hướng dẫn liên ngành số: 24/HD/VKSTC-TATC-BCA-BTP-BQP, ngày 08/5/2014 của
VKSND-TAND-BCA-BTP-BQP về việc “Phân loại đơn khiếu nại tố cáo trong hoạt động
tư pháp” thì không có danh mục “Kết luận định giá tài sản” trong TTHS. Trong
khi đó, có trường hợp người gửi đơn đến khiếu nại “Kết luận định giá tài sản” để
làm căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự thì bộ phận khiếu tố chuyển
đơn đến CQĐT cùng cấp giải quyết theo thẩm quyền và trả lời bằng công văn. Như
vậy, đây có được xem là khiếu nại quyết định trong hoạt động tư pháp hay không
để làm căn cứ kiểm sát hình thức giải quyết bằng công văn hay quyết định, cần
thống nhất hoặc có hướng dẫn về danh mục phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp “Kết luận định giá tài sản” trong TTHS để có cơ sở phân loại
chính xác.
Giải đáp: Theo quy định tại khoản
1 Điều 470 BLTTHS, các quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là quyết định
của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng,
KSV, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động điều tra được ban hành theo quy định của Bộ luật này. Tại Điều
35 BLTTHS, Hội đồng định giá tài sản không phải là cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, Kết luận định giá tài sản không phải là đối tượng
có thể bị khiếu nại. Trường hợp nghi ngờ kết quả định giá tài sản, người tham
gia tố tụng có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng định giá lại
tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTHS.
14. Trường hợp quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Viện trưởng VKS cấp dưới bị VKS cấp trên hủy quyết định
giải quyết khiếu nại và trong quyết định có yêu cầu VKS cấp dưới thực hiện những
yêu cầu của VKS cấp trên để giải quyết lại việc khiếu nại. Theo quy định của
BLTTHS thì những quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Viện trưởng VKS cấp
dưới là 07 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại. Như vậy, trong trường hợp
này thì thời hạn giải quyết khiếu nại của VKS cấp dưới khi có quyết định hủy của
VKS cấp trên thì được tính lại bắt đầu từ thời điểm nào và thời hạn thực hiện
các yêu cầu của VKS cấp trên kéo dài hơn thời hạn giải quyết khiếu nại thì sẽ
theo quy định pháp luật nào?
Giải đáp: Khoản 1 Điều 476
BLTTHS quy định: “...nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Viện
trưởng Viện kiểm sát thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại,
người khiếu nại có quyền khiếu nại đến VKS cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, VKS cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
là quyết định có hiệu lực pháp luật ”.
Như vậy, trong trường hợp VKS cấp trên giải quyết
khiếu nại lần 2 hủy quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 thì đồng thời phải giải
quyết luôn khiếu nại (trong đó thể hiện rõ quan điểm của VKS về nội dung khiếu
nại như mẫu số 16/KT) và đây là quyết định có hiệu lực pháp luật (VKS cấp trên
phải trực tiếp giải quyết khiếu nại lần 2 mà không yêu cầu VKS cấp dưới giải
quyết lại khiếu nại). Trường hợp này, sau khi hủy quyết định giải quyết khiếu nại,
trong quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, VKS cấp trên yêu cầu
VKS đã giải quyết khiếu nại lần đầu hủy quyết định tố tụng trái pháp luật bị
khiếu nại để yêu cầu giải quyết lại hoặc đình chỉ việc giải quyết theo quy định
của BLTTHS.
B. TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG DÂN SỰ,
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1. Giải quyết tố cáo khi người tố
cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo: Tại Điều 509, 512 BLTTDS; Điều 337, 340 Luật TTHC quy định người có quyền tố cáo, thẩm
quyền và thời hạn giải quyết tố cáo, không quy định trường hợp khi người tố cáo
rút toàn bộ nội dung tố cáo thì giải quyết như thế nào, có căn cứ Điều 34 Luật Tố cáo để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết
tố cáo có được không và sử dụng biểu mẫu nào? Đề nghị có hướng dẫn.
Giải đáp: Tại Điều 513
BLTTDS, Điều 341 Luật TTHC quy định thủ tục giải quyết
tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Do vậy, khi người
tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo thì người giải quyết tố cáo ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết tố cáo theo điểm a khoản 3 Điều 34 Luật
Tố cáo; Trường hợp người tố cáo rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét
thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc
rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu
khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải
được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Tố cáo.
Hiện nay chưa có mẫu quyết định đình chỉ giải quyết
tố cáo trong Danh mục mẫu công tác kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát (ban hành kèm theo Quyết định số
204/QĐ-VKSND ngày 01/6/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao). Do vậy, có thể
tham khảo mẫu quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại (Mẫu số 17) trong Danh mục
mẫu theo Quyết định số 204 và mẫu Quyết định đình chỉ giải quyết tố cáo (Mẫu số
24/Ttra) trong hệ thống mẫu dùng trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Thanh tra VKSND (ban hành kèm theo Quyết định số 108/QĐ- VKSTC
ngày 16/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao).
2. Hiện nay, quy định về thời hạn
khiếu nại tại Luật Khiếu nại và Luật TTHC còn mâu thuẫn chưa thống nhất: Ví dụ
như tại Điều 9 Luật Khiếu nại quy định về thời hiệu khiếu nại
là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính. Tuy nhiên, tại Điều 330 Luật TTHC lại quy định thời hiệu khiếu nại là 10 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định hành chính, hành vi hành chính... Do đó gây khó
khăn cho việc xác định thời hiệu khiếu nại để thụ lý hoặc không thụ giải quyết
khiếu nại.
Giải đáp: Hai loại thời hiệu của 2
văn bản luật (Luật Khiếu nại, Luật TTHC) điều chỉnh 2 loại hành vi, quyết định
khác nhau: hành vi hành chính, quyết định hành chính; hành vi tố tụng, quyết định
tố tụng. Do vậy, không mẫu thuẫn vì theo nguyên tắc áp dụng pháp luật thì khiếu
nại lĩnh vực nào thì áp dụng pháp luật lĩnh vực đó để giải quyết. Trong TTHC áp
dụng Luật TTHC để xử lý, giải quyết.
3. Trong TTDS: Chưa có quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành
vi tố tụng của KSV, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng như trong TTHS.
Giải đáp: Quy trình số 546 quy định chung
cho giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (trong đó có lĩnh vực
TTDS), giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTDS áp dụng theo khoản
2, 3 Điều 504 BLTTDS và Quy trình số 546.
C. VƯỚNG MẮC CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Đơn vừa có nội dung khiếu nại,
vừa có nội dung tố cáo nhưng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS thì có thể
ban hành quyết định giải quyết chung hay cần phải ban hành 02 quyết định giải
quyết theo 02 trình tự, thủ tục giải quyết: khiếu nại, tố cáo.
Giải đáp: Khi nhận đơn cần phân loại đơn
theo nội dung (không phân loại theo tiêu đề đơn). Trường hợp trong đơn nêu chưa
rõ thì mời người khiếu nại, tố cáo đến để làm rõ nội dung đơn; nếu người có đơn
vẫn vừa tố cáo, vừa khiếu nại thì hướng dẫn tách đơn thành 2 loại (đơn tố cáo,
đơn khiếu nại). Nếu người có đơn lựa chọn hình thức tố cáo thì phải nêu rõ hành
vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp của người có chức danh tư pháp bị
tố cáo; nếu người có đơn lựa chọn hình thức khiếu nại thì cũng phải nêu rõ hành
vi, quyết định trong hoạt động tư pháp của cơ quan, người có thẩm quyền bị khiếu
nại. Từ đó lựa chọn thủ tục, quy trình giải quyết phù hợp (quy trình giải quyết
khiếu nại hoặc tố cáo).
2. Việc giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp do nhiều đơn vị chủ trì, tham mưu giúp Viện trưởng giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết. Trong đó, Phòng Thanh tra - Khiếu tố có nhiệm vụ chủ
trì tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS
trong các trường hợp quy định tại điểm a, khoản 1 các Điều 13,
Điều 16 Quy chế số 51; chủ trì kiểm tra đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định
giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của VKS theo quy định tại điều 14 Quy chế số 51.
Như vậy cho thấy: Các đơn vị thuộc VKS cấp dưới
phải cung cấp hồ sơ, tài liệu, báo cáo giải trình... cho cả đơn vị kiểm sát và
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và đơn vị nghiệp vụ
khác để đơn vị nghiệp vụ đó nghiên cứu và có ý kiến bằng văn bản thẩm định các
nội dung khiếu nại, tố cáo và các chứng cứ, hồ sơ tài liệu liên quan đến nội
dung khiếu nại, tố cáo, nên không chủ động được thời hạn giải quyết, dễ dẫn đến
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kéo dài, vi phạm về thời hạn giải quyết.
Giải đáp: Mặc dù giải quyết khiếu nại, tố
cáo do nhiều đơn vị phối hợp thực hiện, song đơn vị chủ trì có nhiệm vụ lập hồ
sơ, đưa ra và đề xuất tổ chức thực hiện các yêu cầu phải thực hiện trong quy
trình giải quyết, làm văn bản, tờ trình, dự thảo kết luận, gửi văn bản kèm hồ
sơ cho các đơn vị có trách nhiệm phối hợp, chỉ có duy nhất một hồ sơ do đơn vị
chủ trì lập và quản lý... Do vậy, các đơn vị có trách nhiệm giải trình, cung cấp
hồ sơ, tài liệu chỉ cung cấp, giải trình cho đơn vị chủ trì.
Về thời hạn giải quyết, đây là khó khăn chung của
các cơ quan tư pháp, song để giải quyết kịp thời và phù hợp với các giai đoạn tố
tụng tương ứng nên pháp luật quy định thời hạn giải quyết ngắn. Nếu quy định thời
hạn giải quyết dài thì việc giải quyết khiếu nại sẽ không còn ý nghĩa và xung đột
về thẩm quyền, thủ tục tố tụng. Ví dụ: Trường hợp khiếu nại quyết định khởi tố
bị can nếu để đến khi xét xử sơ thẩm xong mới giải quyết thì việc giải quyết đó
không còn giá trị pháp lý vì lúc này đã chuyển sang giai đoạn tố tụng khác; việc
giải quyết vụ án sẽ theo trình tự thủ tục giải quyết kháng cáo, kháng nghị,
không theo trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tại Chương
XXXIII BLTTHS. Do vậy, VKS các cấp cần cố gắng giải quyết kịp thời, hạn chế
đến mức thấp nhất vi phạm về thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp Tòa án ra quyết
định tạm đình chỉ vụ án dân sự, kinh doanh thương mại và yêu cầu CQĐT xem xét
có dấu hiệu tội phạm hay không; CQĐT ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự,
sau đó Tòa án đã có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự hoặc kinh doanh
thương mại mà quyết định không khởi tố vụ án hình sự bị khiếu nại thì có thông
báo thụ lý giải quyết theo quy định tại Chương khiếu nại, tố cáo trong BLTTHS
hay không?
Giải đáp: Theo quy định tại khoản
2 Điều 158 BLTTHS năm 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo
tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thẩm
quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của BLTTHS.
Trường hợp khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án
hình sự thì thụ lý, giải quyết theo BLTTHS (Thủ trưởng CQĐT hoặc VKS cùng cấp
có thẩm quyền giải quyết).
III. KIỂM TRA QUYẾT ĐỊNH GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
1. Những loại đơn không thuộc trường
hợp Điều 14 Quy chế số 51 mà VKS không xem xét kiểm tra lại
thì người khiếu nại sẽ thực hiện quyền khiếu nại của họ như thế nào? Nếu họ tiếp
tục gửi đơn đến các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Báo chí... thì sẽ giải
quyết thế nào? Điều này sẽ dẫn đến người khiếu nại gửi đơn vượt cấp, gửi nhiều
nơi.
Cũng tại điểm c khoản 1 Điều 14
Quy chế số 51 nêu “...nếu đơn thuộc thẩm quyền kiểm tra nhưng chưa đáp ứng
điều kiện thì lưu đơn để theo dõi và quản lý;... ” điểm này không chỉ rõ lưu
đơn để theo dõi và quản lý mà không kiểm tra xem xét đơn thì có ảnh hưởng đến
quyền lợi của người khiếu nại không?
Giải đáp: Theo quy định của pháp luật, quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp pháp luật là đã được các cơ quan
có thẩm quyền giải quyết hết các trình tự mà pháp luật buộc phải thực hiện. Việc
quy định điều kiện kiểm tra quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp
luật như Điều 14 Quy chế số 51 nhằm phòng, tránh oan sai, bỏ
lọt tội phạm và giải quyết những vấn đề cơ quan có thẩm quyền, dư luận quan
tâm. Đồng thời, cũng là để tránh phát sinh thêm một cấp giải quyết (nếu đơn nào
cũng tiến hành kiểm tra).
Trường hợp chỉ có một đơn đề nghị (không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 14 Quy chế số 51) thì lưu theo dõi, nếu
sau đó có thêm và đủ điều kiện được quy định tại Điều 14
thì thụ lý kiểm tra.
2. Trong trường hợp VKS đã thực hiện
việc kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật đối với
đơn đủ điều kiện kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra cho người gửi đơn,
nhưng sau đó người gửi đơn lại tiếp tục có đơn kèm theo chứng cứ cho rằng là chứng
cứ mới và đề nghị VKS tiếp tục kiểm tra lại. Trong trường hợp này VKS có tiếp tục
kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra nữa hay không? Hình thức kiểm tra, mẫu
thông báo kết quả kiểm tra tiếp như thế nào? Hoặc không tiếp tục kiểm tra lại
thì trả lời đơn hoặc thông báo cho người gửi đơn như thế nào?
Giải đáp: Theo quy định tại Điều
14, Quy chế số 51 việc kiểm tra quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu
lực pháp luật chỉ thực hiện một lần ở mỗi cấp Kiểm sát; do vậy, trường hợp quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật đã được kiểm tra lại nhưng
sau đó có tài liệu xác định có tình tiết mới chưa được xem xét và đủ điều kiện
kiểm tra thì VKS đã kiểm tra lần 1 báo cáo, chuyển hồ sơ đến VKS cấp trên xem
xét xử lý theo quy định chung tại Điều 14 Quy chế số 51.
3. Khi tiếp nhận được đơn đề nghị
kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật, VKS có
thẩm quyền kiểm tra theo trình tự quy định tại khoản 2 Điều 14
Quy chế số 51, phải tiến hành kiểm tra điều kiện thụ lý đơn và chỉ xem xét
để thụ lý kiểm tra lại nếu thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 14 Quy chế số 51. Tuy nhiên, pháp luật
không quy định thời hiệu đối với loại đơn này nên trong thực tiễn có rất nhiều
trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu pháp luật khoảng 10 năm rồi
nhưng người dân gửi đơn đi nhiều nơi, các cơ quan Đảng, Nhà nước lại chuyển đơn
đến VKS.
Việc kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại
đã có hiệu lực pháp luật: Ngoài các điều kiện được kiểm tra, xem xét như quy định
tại Điều 14 Quy chế số 51 cần bổ sung thêm về thời hiệu xử
lý: trong thời hạn 6 tháng hoặc 12 tháng mà người khiếu nại không đề nghị kiểm
tra thì hết thời hiệu kiểm tra, xem xét lại.
Giải đáp: Mục đích của việc kiểm tra lại là
phát hiện vi phạm để khôi phục quyền lợi hợp pháp của chủ thể bị hành vi, quyết
định vi phạm. Vì vậy, trường hợp nếu giải quyết lại cũng không khôi phục được
thì không thực hiện kiểm tra theo quy định tại Điều 14 (ví
dụ hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, dấu vết, tang vật chứng không
còn vì lý do khách quan...). Tuy vậy, trường hợp cần minh oan thì không có thời
hạn; do đó, không thể bổ sung thời hạn 6 tháng hoặc 12 tháng mà người khiếu nại
không đề nghị kiểm tra thì hết thời hiệu kiểm tra, xem xét lại.
4. Khi tiến hành kiểm tra lại quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, ban hành kết luận kiểm tra và
thông báo cho người khiếu nại biết kết quả kiểm tra. VKS có phải gửi kết luận
kiểm tra cho người khiếu nại hay không?
Giải đáp: Vì “kiểm tra” mang tính chất của
công tác quản lý, chỉ đạo, cho nên khi kết luận kiểm tra thì bản kết luận chỉ gửi
cho VKS đã có quyết định giải quyết khiếu nại; đồng thời, ban hành văn bản
thông báo kết quả kiểm tra (riêng) gửi người có đơn.
Tại điểm c khoản 3 Điều 14 Quy chế
số 51 quy định: "Kết thúc việc kiểm tra, Viện kiểm sát thực hiện
như sau.... Thông báo bằng văn bản kết quả kiểm tra cho người đã gửi
đơn...". Đồng thời, tại khoản 2 Điều 15 Quy trình số
546 có nêu: “Ban hành kết luận kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra:
Căn cứ báo cáo kết quả kiểm tra đã được phê duyệt,
người được phân công kiểm tra dự thảo kết luận kiểm tra quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật và văn bản thông báo kết quả kiểm tra gửi
người có đơn đề nghị để trình người có thẩm quyền ký ban hành".
Theo các quy định nêu trên thì VKS chỉ thông báo
cho người khiếu nại biết kết quả kiểm tra mà không phải gửi kèm theo kết luận
kiểm tra.
IV. CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. BLTTDS và Luật TTHC năm 2015 chỉ
quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu, không quy định thời hạn giải
quyết khiếu nại lần 2, do vậy không có căn cứ xác định Tòa án vi phạm thời hạn
giải quyết khiếu nại.
Giải đáp: Việc đánh giá vi phạm của cơ quan
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải có căn cứ pháp luật, hiện tại, trong
TTDS và TTHC chưa quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần 2 thì khi kiểm sát
không đánh giá về việc này.
2. Đơn có nội dung phản ánh về việc
chậm giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thì Phòng/bộ phận khiếu nại, tố cáo
có phải kiểm sát việc giải quyết đối với loại đơn này không? nếu có thì phòng/bộ
phận khiếu nại, tố cáo phải thực hiện thẩm quyền, biện pháp kiểm sát như thế
nào?
Giải đáp: Về nguyên tắc, theo quy định tại
Quy chế số 51, Đơn vị kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp (viết tắt là Đơn vị kiểm sát khiếu nại, tố cáo) có trách nhiệm chủ trì
kiểm sát giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, đối với khiếu nại việc chậm giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố là khiếu nại về quá trình giải quyết
tố giác, tin báo, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo này được thực hiện
theo Quy chế số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020. Vì vậy, về quy định thì Đơn vị kiểm
sát khiếu nại, tố cáo có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với đơn vị kiểm sát tin báo,
tố giác để kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Nhưng để phù hợp với nhân lực thực tế của VKS địa phương trong thực hiện nhiệm
vụ thì Viện trưởng VKS quyết định giao cho đơn vị nghiệp vụ kiểm sát tin báo, tố
giác về tội phạm chủ trì thực hiện công tác này. Trường hợp đơn vị kiểm sát tin
báo, tố giác được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại chậm giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm thì Đơn vị kiểm sát khiếu nại,
tố cáo có trách nhiệm phối hợp và quản lý, đôn đốc việc kiểm sát.
3. Trong thực tế số lượng đơn khiếu
nại, đề nghị xem xét việc Tòa án hai cấp chậm thụ lý đơn khởi kiện của công dân
gửi đến VKS tương đối nhiều. Những loại đơn này không thuộc phạm vi kiểm sát việc
giải quyết đơn nên VKS hai cấp chỉ có thể phối hợp trao đổi với Tòa án xem xét,
xử lý đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 191 BLTTDS năm 2015
mà không thể thực hiện các biện pháp yêu cầu đối với Tòa án xem xét xử lý đơn
khởi kiện ảnh hưởng quyền khởi kiện, quyền khiếu nại, kiến nghị của đương sự. Đề
nghị có hướng dẫn xử lý vướng mắc trên.
Giải đáp: - Khoản 1 Điều 499
BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định,
hành vi trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có
căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của mình”. Điều 515 BLTTDS quy định: “Viện
kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền
yêu cầu, kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá
nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ,
đúng pháp luật.”
Theo các quy định trên, khi Tòa án chậm thụ lý đơn
khởi kiện của công dân thì công dân có quyền khiếu nại hành vi chậm thụ lý đơn
của Tòa án và VKS có thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của Tòa án.
- Khoản 2 Điều 13 Quy định về
quy trình tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân, quy định: “2. Trường
hợp khiếu nại thuộc thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát cấp
mình, người tiếp công dân tiếp nhận đơn, tài liệu để thực hiện thẩm quyền kiểm
sát việc giải quyết theo quy định của pháp luật và của Ngành”. Điểm a khoản 2 Điều 10 Quy chế số 51 quy định: “a. Đối với
đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết của Viện
kiểm sát cấp mình, thì thụ lý để giải quyết hoặc thực hiện thẩm quyền kiểm sát
việc giải quyết theo quy định của pháp luật và Quy chế này”.
Theo các quy định trên nếu công dân gửi đơn khiếu nại
về việc Tòa án chậm thụ lý đơn khởi kiện đến VKS thì xử lý như sau:
- Trường hợp công dân chưa gửi đơn khiếu nại đến
Tòa án thì cán bộ thụ lý đơn của VKS cần hướng dẫn công dân gửi đơn khiếu nại đến
Tòa án để giải quyết đồng thời kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của Tòa án
theo quy định của Quy chế số 51.
- Trường hợp công dân đã gửi đơn khiếu nại đến Tòa
án thì cán bộ tiếp công dân của VKS cần thụ lý đơn để kiểm sát theo quy định của
Quy chế số 51.
4. Điều 499 BLTTDS
(Chương XLI), Điều 327 Luật TTHC (Chương XXI) đều quy định
“...các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng... ban hành nếu có
khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định của Chương này mà được
giải quyết theo quy định của các chương tương ứng... ”. Qua nghiên cứu thấy tại
Điều 42 (Chương III) BLTTDS và Điều 35
(Chương II) Luật TTHC quy định về việc Tòa án ra quyết định nhập hoặc tách
vụ án nhưng không quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối
với các quyết định này. Trong trường hợp quyết định nhập hoặc tách vụ án của
Tòa án bị đương sự khiếu nại thì Tòa án giải quyết theo trình tự, thủ tục nào?
Đề nghị có hướng dẫn, giải đáp.
Giải đáp: Điều 42 BLTTDS
và Điều 35 Luật TTHC quy định đương sự được nhận quyết định
nhập hoặc tách vụ án của Tòa án. Pháp luật không quy định thủ tục giải quyết
khiếu nại riêng và cũng không quy định trình tự, thủ tục tố tụng (kháng cáo,
kháng nghị) đối với quyết định này. Do vậy, nếu đương sự cho rằng quyết định đó
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khiếu nại theo quy định
tại chương khiếu nại, tố cáo của BLTTDS, Luật TTHC.
5. Không quy định trách nhiệm của
các cơ quan tư pháp phải thông báo việc thụ lý giải quyết đơn khiếu nại cho
VKS. BLTTHS hiện nay chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp. Thực tế VKS chỉ kiểm sát và nắm được
những đơn do đương sự gửi đến VKS, còn những đơn khiếu nại, tố cáo đương sự trực
tiếp gửi đến các các cơ quan tư pháp giải quyết thì VKS rất khó quản lý và nắm
được để thực hiện chức năng kiểm sát.
Giải đáp: Tại Thông tư liên tịch số 02/2018
đã quy định việc cơ quan tư pháp phải gửi văn bản thông báo thụ lý và quyết định
giải quyết khiếu nại, tố cáo cho VKS; song các bộ luật, luật khác chỉ quy định
việc gửi quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận giải quyết tố cáo, không quy
định việc gửi văn bản thông báo thụ lý. Do vậy, để thực hiện kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong TTDS, TTHC, THADS, THAHS cần tăng cường các biện
pháp yêu cầu để phát hiện và xác định vi phạm.
6. Theo quy định Điều
41, Điều 43 Luật Giám định tư pháp thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại Kết luận giám định tư pháp là bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Vì vậy, khi nhận được đơn khiếu nại Kết luận giám định của Trung tâm Pháp y tỉnh
thì VKS tỉnh đã chuyển đơn đến Ủy ban nhân dân tỉnh để giải quyết. Vậy, cơ quan
nào có thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết đơn khiếu nại Kết luận giám định tư
pháp của Ủy ban nhân dân.
Giải đáp: Giám định tư pháp là hoạt động bổ
trợ tư pháp, không thuộc đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp, nếu thấy kết quả
giám định không đúng hoặc có vi phạm thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
trưng cầu giám định lại hoặc trực tiếp trưng cầu giám định (nếu VKS đang thụ lý
vụ việc) đồng thời kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng
ngừa vi phạm.
7. Về việc gửi quyết định trực tiếp
kiểm sát, theo quy định tại Điều 30 Quy trình số 546 thì
VKS phải gửi đến cơ quan được kiểm sát ít nhất 05 ngày làm việc trước khi trực
tiếp kiểm sát nhưng tại Điều 30 Thông tư liên tịch số 02/2018
lại quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trực tiếp
kiểm sát, cơ quan được kiểm sát phải xây dựng báo cáo theo các nội dung được kiểm
sát. Vậy VKS thực hiện theo quy định nào?
Giải đáp: Quy trình số 546 ngày 03/12/2018 của
VKSND tối cao là văn bản trong nội bộ ngành Kiểm sát quy định về giải quyết khiếu
nại, tố cáo; kiểm tra quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật
và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (bao hàm
hết các lĩnh vực hoạt động tư pháp: TTHS, TTDS, TTHC, THAHS, THADS). Còn Thông
tư liên tịch số 02/2018 ngày 05/9/2018 là văn bản quy phạm pháp luật, quy định
về khiếu nại, tố cáo trong TTHS; do vậy, khi tiến hành trực tiếp kiểm sát về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS phải thực hiện theo quy định tại Thông tư
02; trong THAHS thì theo Quy trình số 546.
8. Đơn không thuộc thẩm quyền giải
quyết nhưng thuộc quyền kiểm sát, đã chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
khi giải quyết xong không thông báo kết quả cho VKS nên khó kiểm sát đối với
các đơn này.
Giải đáp: Trong trường hợp này VKS phải theo
dõi để đôn đốc các cơ quan tư pháp có thẩm quyền tiến hành giải quyết theo thời
hạn được quy định trong luật tương ứng. Khi cần thiết VKS có thẩm quyền áp dụng
biện pháp kiểm sát phù hợp theo quy định của pháp luật. Trình tự, thủ tục thực
hiện theo các Điều 17, 18 và 19 Quy chế số 51 và các Điều 25, 26, 27, 28, 29, 30 và 31 của Quy trình số 546.
9. Việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp, có trường hợp cơ quan tiến
hành tố tụng, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mới chỉ dừng lại ở hình
thức giải đáp những thắc mắc của người khiếu nại, bằng cách thông báo trực tiếp
hoặc có nơi còn dùng công văn mang tính chất thông báo thay cho quyết định giải
quyết khiếu nại. Có trường hợp giải quyết khiếu nại cơ quan có thẩm quyền chỉ
ban hành một quyết định thay thế quyết định bị khiếu nại thì coi như việc khiếu
nại đã được giải quyết, mà không cần ban hành quyết định giải quyết khiếu nại nữa.
Vậy trong trường hợp trên, có xem là vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng hay
không?
Giải đáp: Theo quy định của pháp luật hiện
hành, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải ban hành quyết định giải quyết khiếu
nại hoặc kết luận nội dung tố cáo; trong quyết định, kết luận phải xác định
tính có căn cứ hay không của nội dung khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp nội
dung khiếu nại có vi phạm, cần phải xử lý, khắc phục thì phải ban hành quyết định,
kết luận sau đó hủy quyết định có vi phạm bị khiếu nại để ban hành hoặc yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền (đã ban hành quyết định trái pháp luật) ban hành quyết định
khác. Như vậy, trường hợp nêu trên là cơ quan có thẩm quyền đã vi phạm trình tự,
thủ tục giải quyết khiếu nại.
Tuy vậy, cũng cần xem xét việc giải quyết khiếu nại
ở nhiều góc độ. Trường hợp Quyết định tố tụng bị khiếu nại đã được cơ quan có
thẩm quyền hủy bỏ hoặc thay thế bằng một quyết định khác phù hợp mà người khiếu
nại đồng ý không khiếu nại tiếp thì có thể coi như nội dung vấn đề đã được giải
quyết nhưng trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa thực hiện đầy đủ; VKS
trao đổi trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền để rút kinh nghiệm, không nhất thiết
phải ban hành văn bản kiến nghị.
Riêng đối với tố cáo thì cần phải có kết luận rõ
ràng vì nó liên quan đến việc chứng minh cho tính đúng quy định hay vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng và việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người tố cáo như lợi dụng
quyền tố cáo để xuyên tạc, bôi nhọ người khác, vu khống người khác...
10. Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Thông tư liên tịch 02/2018 quy định: “...Trong
thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, Viện kiểm
sát phải thông báo bằng văn bản về việc đồng ý hay không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại... của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, Tòa án”. Thời hạn 03 ngày là quá ngắn để VKS thông báo bằng
văn bản đồng ý hay không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại. Đối với cấp
tỉnh, phòng nghiệp vụ hay phòng khiếu tố tham mưu lãnh đạo VKS để ban hành
thông báo? Đề nghị có hướng dẫn cụ thể.
Khoản 2, Điều 8, khoản 2, Điều
12 Thông tư liên tịch số 02/2018 quy định: Trong thời hạn 03 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo VKS phải có văn bản
trả lời đồng ý hoặc không đồng ý... Trong trường hợp VKS không đồng ý với các
quyết định đó thì hậu quả pháp lý của quyết định đó giải quyết như thế nào? VKS
có văn bản yêu cầu hủy bỏ hoặc VKS ban hành quyết định hủy bỏ? Đề nghị có hướng
dẫn về nội dung này. VKS thông báo bằng văn bản đồng ý hay không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp cùng cấp đến nay chưa
có biểu mẫu hướng dẫn.
Giải đáp:
- Việc nghiên cứu và trả lời ý kiến về quyết định
giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được quyết định là việc ý kiến về những vấn đề thể hiện trong quyết định
giải quyết. Do thời hạn ngắn, nên khi nhận được thông báo thụ lý của cơ quan có
thẩm quyền giải quyết theo quy định của Thông tư liên tịch số 02/2018 thì đơn vị
chuyên trách kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo phải chủ động phối hợp với
đơn vị kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiểm sát điều tra
để thu thập tài liệu có liên quan để đánh giá; trường hợp tài liệu của VKS
không đủ để có ý kiến đánh giá thì phối hợp đề nghị cơ quan có thẩm quyền cung
cấp những tài liệu mà VKS chưa có để đánh giá; nếu xét thấy có dấu hiệu vi phạm
trong giải quyết thì ban hành văn bản yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu liên
quan đến việc giải quyết khiếu nại hoặc biện pháp kiểm sát khác phù hợp để kiểm
sát; kiến nghị, kháng nghị đối với những vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Như vậy, không có nghĩa là trong 03 ngày VKS phải
kết thúc kiểm sát giải quyết một vụ việc mà có thể qua đó để thực hiện các biện
pháp kiểm sát đối với vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại mà cơ quan
có thẩm quyền đã gửi cho VKS.
- Theo quy định tại Điều 17 Quy chế
số 51, Đơn vị kiểm sát khiếu nại, tố cáo thuộc VKSND cấp tỉnh có trách nhiệm
chủ trì thực hiện kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Mẫu văn bản thông báo Vụ 12 VKSND tối cao sẽ
nghiên cứu, tham mưu ban hành.
11. Trong một số vụ việc, vụ án,
sau khi CQĐT thụ lý hoặc ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, thì không gửi
kết quả giải quyết tới VKS để kiểm sát theo quy định mà gửi kèm theo hồ sơ vụ
việc, vụ án khi kết thúc thời hạn điều tra, gây khó khăn cho viện kiểm sát khi
kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của
CQĐT.
Giải đáp: Theo khoản 2 Điều
8 Thông tư liên tịch số 02/2018 thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ban
hành quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành quyết định
phải gửi cho VKS... Như vậy, nếu CQĐT không gửi trong thời hạn đó thì VKS yêu cầu
gửi, nếu là tình trạng phổ biến thì cần tổng hợp vi phạm ban hành kiến nghị.
12. Đối với khiếu nại, tố cáo liên
quan đến lực lượng Công an xã trong việc giữ người, đánh người hoặc tiếp nhận tố
giác, tin báo tội phạm có thuộc lĩnh vực khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực tư pháp
hay không?
Bởi vì, theo quy định tại Điều
35 BLTTHS không quy định Công an xã là Cơ quan được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 7 Thông tư
liên tịch số 01 ngày 29/12/2017 có quy định “Công an xã phải bố trí cán bộ
trực để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm”. Khi xảy ra trường hợp có khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực này của cơ quan điều tra thì có thuộc
trách nhiệm kiểm sát của VKS cùng cấp không, đề nghị được hướng dẫn cụ thể.
Giải đáp: Theo quy định tại Điều
145 BLTTHS năm 2015, hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm là hoạt
động tư pháp. Công an xã cũng có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm. Theo quy định tại Điều 470 BLTTHS năm 2015, các quyết
định, hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại trong tố tụng hình sự, giải quyết
theo quy định của Chương XXXIII BLTTHS là những quyết định,
hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền, người được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 35 BLTTHS năm 2015 và Điều 9 Luật Tổ chức
CQĐT hình sự năm 2015, Công an xã không phải là cơ quan, người được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nên khi có khiếu nại, tố cáo thì
việc giải quyết không theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà theo quy định
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Do vậy, VKS không có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm
sát giải quyết khiếu nại về việc bắt giữ người của Công an xã.
13. Tại Điều 148
Luật THADS không quy định cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
phải gửi thông báo thụ lý, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo cho VKS.
Trong khi đó tại Điều 159 lại quy định VKS phải kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS và
VKS có quyền yêu cầu, kiến nghị. Luật quy định như vậy là chưa phù hợp, gây khó
khăn trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS; khoản
2 Điều 159 Luật THAHS quy định việc cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại
Điều 152, Điều 153 khi thụ lý đơn phải thông báo bằng văn
bản cho người khiếu nại biết mà không có quy định gửi thông báo thụ lý cho VKS.
Đồng thời, Chương XIII không quy định việc cơ quan, người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thông báo kết quả giải quyết cho VKS.
Giải đáp: Đây là những vấn đề vướng mắc pháp
luật, VKSND tối cao sẽ nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tháo gỡ
chung; trước mắt, VKS các cấp thực hiện các quyền yêu cầu theo quy định của Luật
Tổ chức VKSND năm 2014 và các luật tương ứng để có thông tin phục vụ kiểm sát.
14. Chỉ tiêu kiểm sát đối với công
tác kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại tố cáo theo kế hoạch của Ngành thì 01
năm VKS huyện, tỉnh phải thực hiện ít nhất 01 cuộc kiểm sát trực tiếp các cơ
quan tư pháp trong lĩnh vực giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo. Theo quy định thì
chỉ được kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
TTHS và THAHS, nhưng đa số các cơ quan tư pháp trong lĩnh vực này đều thực hiện
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng quy định pháp luật về thời hạn, trình tự
giải quyết nên chưa phát hiện vi phạm hoặc có một số đơn vị VKS cấp huyện, qua
công tác kiểm sát không phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp. Đối với trường hợp này đơn vị có phải xây dựng kế hoạch kiểm sát trực tiếp
để đảm bảo chỉ tiêu công tác hay trong báo cáo sẽ nêu rõ lý do không tiến hành
kiểm sát trực tiếp.
Giải đáp: Việc quy định các điều kiện kiểm
sát trực tiếp chỉ quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2018 được áp dụng trong
TTHS, còn trong THAHS không quy định. Vì vậy, đối với lĩnh vực TTHS, nếu sau
khi thực hiện biện pháp yêu cầu kiểm tra thông báo kết quả mà không có thông
tin về dấu hiệu vi phạm thì báo cáo lý do không trực tiếp kiểm sát.
15. Việc kiểm sát vụ việc cụ thể
thì biểu mẫu kiểm sát như thế nào; hồ sơ kiểm sát gồm những gì thì hiện nay
chưa có hướng dẫn quy trình, cách thức phải thực hiện như thế nào trong khi đó
chỉ tiêu của Ngành buộc phải thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ việc cụ thể
về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đạt 70%/năm là khó thực hiện (Thực
tế đơn vị xét khiếu tố vận dụng mẫu phiếu kiểm sát bản án, quyết định trong
lĩnh vực dân sự, hành chính để thực hiện).
Giải đáp: Hiện nay VKSND tối cao chưa có văn
bản hướng dẫn về lập hồ sơ kiểm sát giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo; song
về cơ bản, hồ sơ kiểm sát phải lưu trữ đầy đủ các văn bản, tài liệu mà VKS đã
tiếp nhận, ban hành trong quá trình kiểm sát và văn bản thể hiện kết quả kiểm
sát.
- Về Biểu mẫu trong hoạt động kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp: Biểu mẫu được thực hiện theo
Danh mục biểu mẫu công tác kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số
204 ngày 01/6/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao).
- Về hồ sơ kiểm sát: Khoản 4 Điều
19 Quy chế số 51 quy định: “Việc tiến hành kiểm sát và kiểm tra việc thực
hiện kiến nghị, kháng nghị đều phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ phải có đầy đủ
các văn bản kiểm sát hoặc kiểm tra đã ban hành theo quy định và các tài liệu
liên quan khác. Hồ sơ phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu
trữ theo quy định của pháp luật ”
Quy định này áp dụng chung cho thực hiện các biện
pháp kiểm sát.
16. Khi nào thì ban hành kiến nghị, khi nào thì ban hành kháng
nghị vì theo quy định hiện nay, căn cứ kết quả kiểm sát, người được phân công
kiểm sát dự thảo kết luận kiểm sát; nếu có căn cứ kết luận được vi phạm trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan được kiểm sát thì dự thảo kiến
nghị hoặc kháng nghị. Như vậy, vi phạm mức độ như thế nào thì kiến nghị, vi phạm
mức độ như thế nào là kháng nghị thì cũng cần được hướng dẫn rõ ràng để được thực
hiện thống nhất trong toàn Ngành để tránh tình trạng cũng một dạng vi phạm
nhưng có đơn vị ban hành kiến nghị, có đơn vị ban hành kháng nghị.
Giải đáp: Các trường hợp kháng nghị, kiến
nghị của VKS được thực hiện theo quy định tại Điều 5 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014, cụ thể: “(1) Trường hợp hành vi, bản án, quyết định
của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải
kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm
sát nhân dân theo quy định của pháp luật; (2) Trường hợp hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này
thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và
xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong
hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng
các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND
theo quy định của pháp luật ”.
Các thuật ngữ “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”
và “vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng” tại Điều 5 Luật
Tổ chức VKSND cần được hiểu như sau:
- Vi phạm pháp luật nghiêm trọng là hành vi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật, xâm phạm quyền con
người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
- Vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng là hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật nhưng không
gây tổn hại hoặc gây tổn hại không đáng kể đến quyền con người, quyền công dân,
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
17. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
tiếp nhận, thụ lý, giải quyết nhiều đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vụ
việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, hình sự... nhưng VKS chỉ kiểm
sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS. Quy chế số 51 không
quy định về biện pháp trực tiếp kiểm sát đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với Tòa
án nhân dân cùng cấp trong lĩnh vực dân sự, hành chính, vì vậy, không thể tiến
hành áp dụng biện pháp trực tiếp kiểm sát đơn thư khiếu nại, tố cáo của Tòa án,
đề nghị bổ sung quy định về việc trực tiếp kiểm sát đơn thư khiếu nại, tố cáo đối
với Tòa án.
Giải đáp: Điều 515 BLTTDS
và Điều 343 Luật TTHC đều quy định VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính theo quy định của pháp luật. VKS có quyền yêu cầu, kiến
nghị đối với Tòa án cùng cấp, Tòa án cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá
nhân có trách nhiệm bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng
pháp luật. Điều 34, 35 Thông tư liên tịch số 02/2016 và Điều 31, 32 Thông tư liên tịch số 03/2016 chỉ quy định VKS có
quyền yêu cầu và kiến nghị đối với Tòa án trong việc kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Theo các quy định trên, VKS không thực hiện hoạt động
kiểm sát trực tiếp đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án trong tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, do đó, Quy chế của Ngành kiểm sát không quy định
đối với hoạt động này. VKSND tối cao ghi nhận vướng mắc để kiến nghị đối với cơ
quan có thẩm quyền sửa đổi quy định trên.
Tuy nhiên, đối với việc kiểm sát trực tiếp tại
TAND, cần có kỹ năng phù hợp như: Kết hợp thực hiện theo Thông tư liên tịch
02/2018 để kiểm sát trực tiếp trong TTHS; áp dụng các biện pháp kiểm sát khác để
kiểm sát vụ việc hoặc tổng hợp vi phạm, ban hành kiến nghị trong TTDS, TTHC.
Trường hợp các TTHS, TTDS, TTHC có vi phạm phổ biến tương tự thì nên tổng hợp
vi phạm cùng thời điểm để ban hành kiến nghị chung.
18. Về thời hạn gửi thông báo, quyết
định giải quyết đơn: Trong lĩnh vực dân sự, VKS nhận đơn chủ yếu là các đơn khiếu
nại, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên
sau khi nhận đơn VKS đã chuyển đơn đến Tòa án giải quyết theo thẩm quyền. Do
chưa có quy định cụ thể về thời hạn gửi thông báo, quyết định giải quyết đơn
nên sau khi giải quyết xong, Tòa án chậm hoặc không thông báo kết quả giải quyết
đến VKS nên gây khó khăn trong việc kiểm sát việc giải quyết.
Đối với đơn kiến nghị, phản ánh và đơn khác VKS
tiếp nhận, phân loại là đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát của VKS và đã chuyển cho
cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định nhưng chưa có quy định về thời hạn
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn và thông báo kết quả giải quyết đơn
cho VKS.
Giải đáp:
- Đối với đơn khiếu nại: Trong TTDS hiện không có
quy định về thời hạn gửi thông báo, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
Viện kiểm sát sau khi Tòa án giải quyết. Vì vậy, VKS phải chủ động theo dõi, đối
chiếu quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS, TTDS, TTHC
để xác định cơ quan tư pháp có vi phạm thời hạn giải quyết không; nếu có vi phạm
thì thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật tương ứng.
- Đối với đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh: Điểm c khoản 5 Điều 10 Quy chế số 51 quy định: “Đối với
đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của VKS cấp
mình, thì Đơn vị kiểm sát đơn khiếu nại, tố cáo chuyển đến các đơn vị có trách
nhiệm hoặc người có thẩm quyền để xem xét; trường hợp đơn thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan khác, thì chuyển đơn cho cơ quan có thẩm quyền, đồng thời báo
tin cho người gửi đơn biết”.
Theo quy định trên thì đối với đơn đề nghị, kiến
nghị, phản ánh, yên cầu thuộc thẩm quyền của Tòa án thì VKS chỉ chuyển đơn đến
Tòa án đồng thời báo tin cho người gửi đơn biết mà không tiến hành kiểm sát việc
giải quyết.
V. CÔNG TÁC TỔNG HỢP, BÁO CÁO VÀ
BIỂU MẪU NGHIỆP VỤ
1. Theo quy định tại Điều 2 Quy chế số 51 thì “đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát việc
giải quyết là khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
giải quyết của các cơ quan khác, nhưng theo quy định của pháp luật, Viện kiểm
sát có thẩm quyền giải quyết”. Trước đây, biểu thống kê Biểu 19 năm 2016, chỉ
thống kê đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền kiểm sát (số liệu trùng khớp với
báo cáo viết); Tuy nhiên, tại biểu thống kê 24 năm 2019 thì tính số đơn thuộc
thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tin báo, tố giác tội
phạm, như vậy trong báo cáo viết sẽ liệt kê “số đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tin báo, tố giác tội phạm” hay chỉ nêu số
đơn khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm kiểm sát?
Giải đáp: Để thống nhất giữa hai loại báo
cáo, báo cáo tổng hợp dùng số liệu của báo cáo thống kê và phân tích rõ từng
tiêu chí, còn báo cáo thống kê sẽ diễn giải từng phân loại đơn (trong đó: đơn
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và tố giác, tin báo tội phạm).
2. Đối với Quyết định giải quyết
khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện theo Điều 194 BLTTDS
thì có thông báo cho VKS phân công kiểm sát viên tham gia phiên họp kiểm sát việc
tuân theo pháp luật về việc khiếu nại trả đơn khởi kiện. Nhưng quyết định giải
quyết khiếu nại này có báo cáo trong lĩnh vực đơn thư không.
Giải đáp: Quyết định giải quyết khiếu nại trả
lại đơn khởi kiện là thủ tục tố tụng, do đơn vị Kiểm sát giải quyết các vụ, việc
dân sự kiểm sát; theo quy định tại khoản 2 Điều 499 BLTTDS
thì không giải quyết theo Chương XLI (khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng dân sự). Vì vậy, quyết định giải quyết khiếu nại loại này không
báo cáo theo lĩnh vực kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp.
3. Điểm b khoản 1
Điều 5 Thông tư liên tịch số 01 quy định lấy số liệu từ ngày 01 tháng 10 của
năm trước liền kề đến ngày 31 tháng 7 của năm báo cáo, thông báo. Tuy nhiên,
theo QĐ số 279/QĐ-VKSTC ngày 01/8/2017 của VKSND tối cao thì không quy định mốc
thời điểm báo cáo này, cần xem xét quy định thống nhất.
Giải đáp: Báo cáo Quốc hội là theo yêu cầu của
Quốc hội đối với tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị trong đó có VKSND,
phải thực hiện theo yêu cầu chung; còn báo cáo theo Quyết định số 279/QĐ-VKSTC
là báo cáo theo yêu cầu của ngành Kiểm sát phục vụ đánh giá công tác năm và định
hướng cho năm sau, phụ thuộc yêu cầu công tác của Ngành, các đơn vị, địa phương
không tự thay đổi được.
4. Điểm a khoản 2
Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2018 quy định về tiếp nhận, phân loại xử lý
khiếu nại như sau: “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết
khiếu nại trong hoạt động tư pháp thì chuyển đơn đến cơ quan, người có thẩm quyền
giải quyết, đồng thời thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại” nhưng tại mẫu
số 04 “Giấy báo tin” của Thông tư liên tịch số 02/2018 hướng dẫn “Để báo cho
người khiếu nại, tố cáo biết việc khiếu nại, tố cáo của họ không thuộc thẩm quyền
giải quyết của cơ quan mình và đã chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền để xử lý
(hoặc giải quyết) nếu người khiếu nại, tố cáo có yêu cầu được thông báo Đề nghị
sửa đổi bổ sung để thực hiện thống nhất trong các cơ quan tư pháp. Mẫu Phiếu
chuyển đơn (mẫu 03) theo Thông tư liên tịch số 02/2018 dùng cho chuyển đơn khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động kiểm sát không thuộc thẩm quyền giải quyết, trách
nhiệm kiểm sát việc giải quyết nhưng lại không quy định cơ quan có thẩm quyền
giải quyết phải thông báo kết quả giải quyết cho VKS biết (sau khi nhận phiếu
chuyển đơn của VKS và đã xử lý, giải quyết theo thẩm quyền).
Giải đáp: Đối với tố cáo, thì cơ quan tiếp
nhận đơn chỉ báo tin khi người tố cáo yêu cầu; mẫu số 04 “Giấy báo tin” là
để báo tin cho người tố cáo khi họ yêu cầu. Mẫu số 04 nêu trên không dùng cho
trường hợp Thông báo cho người khiếu nại như quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2018. Vì vậy, Quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 và Mẫu số 04 “Giấy báo tin” của
Thông tư liên tịch số 02/2018 không mâu thuẫn nhau.
Đối với đơn không thuộc trách nhiệm kiểm sát của
VKS thì không thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết thông báo kết quả
cho VKS vì Luật không quy định.
Trên đây là nội dung giải đáp một số khó khăn, vướng
mắc liên quan đến công tác tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát
nhân dân. Quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc hoặc cần trao đổi, đề
nghị phản ánh về VKSND tối cao (qua Vụ 12) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Đ/c Viện trưởng VKSNDTC (để báo cáo);
- Các Đ/c Phó Viện trưởng VKSNDTC (để b/c);
- Các Đ/c Kiểm sát viên VKSNDTC (để b/c);
- Lưu: VT, V12, HS.
|
TL. VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ KIỂM SÁT VÀ GIẢI QUYẾT ĐƠN KHIẾU NẠI TỐ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP
Phạm Thanh Từng
|
[1] Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
(ban hành kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC ngày 02/02/2016 của Viện trưởng
VKSND tối cao, viết tắt là Quy chế số 51)
[2] Ban hành kèm theo Quyết định số 249/QĐ-VKSTC
ngày 09/7/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao