Cổ đông CTCP thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2020, kể từ thời điểm cam kết góp vốn, các thông tin cụ thể về thời điểm góp vốn phải được công ty cổ phần ghi trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Việc góp vốn có thể được các cổ đông sáng lập đăng ký góp thành nhiều đợt, đợt đầu được tính từ ngày công ty cổ phần bắt đầu thực hiện các hoạt động kinh doanh và đợt cuối chậm nhất không quá 90 ngày, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Quy định thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản không được tính vào thời hạn 90 ngày là điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Để đảm bảo tính khả thi, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung quy định là thời hạn góp vốn sẽ không bao gồm thời gian nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính trong trường hợp cổ đông góp vốn bằng tài sản. Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua quy định trong thời hạn 90 ngày nói trên, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. Trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác, người góp vốn trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm đã thanh toán việc mua cổ phần và những thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng ký cổ đông. Trường hợp sau thời hạn 90 ngày mà cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua thì thực hiện theo quy định sau đây: Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; Cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua (hết 90 ngày), công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ, trừ trường hợp số cổ phần chưa thanh toán đã được bán hết trong thời hạn này; đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập. Như vậy, so với quy định tại Luật Doanh Nghiệp 2014, điều luật sửa đổi khoản 4 nhằm mục tiêu ràng buộc thêm trách nhiệm của các cổ đông khi vi phạm quy định về góp vốn vào công ty cổ phần, bảo vệ lợi ích tốt hơn cho chủ nợ và bên thứ ba, hạn chế tình trạng khai khống vốn, không góp vốn đủ số vốn đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra khoản 5 đã được bổ sung nhằm xác định rõ ràng về thời điểm người góp vốn trở thành cổ đông công ty, giảm thiểu rủi ro cho người góp vốn, giảm thiểu tranh chấp trong công ty; góp phần bảo vệ lợi ích tốt hơn cho người góp vốn và công ty.
Xử lý trường hợp cổ đông không thanh toán cổ phần đã đăng ký mua
Căn cứ Khoản 1 và Khoản 2 Điều 112 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: "Điều 112. Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp 1. Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm giám sát, đôn đốc thanh toán đủ và đúng hạn các cổ phần các cổ đông đã đăng ký mua. 2. Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua quy định tại khoản 1 Điều này, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. 3. Nếu sau thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua, thì thực hiện theo quy định sau đây: a) Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; b) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; c) Số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; d) Công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định tại khoản 1 Điều này. [...]" => Như vậy, trong trường hợp đã hết 90 ngày kể từ ngày nhận được giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà cổ đông của công ty chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua thì đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; công ty phải tiến hành đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Đồng thời, tham khảo về việc điều chỉnh vốn điều lệ công ty được nêu tại Điều Công văn 6811/BKHĐT-ĐKKD như sau: "3. Trường hợp trong thời hạn đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ theo quy định tại Khoản 4 Điều 48, Khoản 3 Điều 74, điểm d Khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014, phần vốn góp, cổ phần chưa thanh toán được bán hết cho các thành viên, cổ đông còn lại hoặc tổ chức, cá nhân khác thì công ty không phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ. [...] - Trường hợp việc bán phần cổ phần chưa thanh toán dẫn đến thay đổi thông tin cổ đông sáng lập công ty cổ phần: Hồ sơ thông báo thay đổi thông tin cổ đông sáng lập thực hiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, trong đó, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần được thay thế bằng quyết định chào bán cổ phần chưa thanh toán của Hội đồng quản trị và giấy tờ chứng minh hoàn tất việc bán cổ phần. [...]" => Như vậy, đối với việc cổ đông khác của công ty muốn mua lại hết số cổ phần chưa thanh toán thì công ty không phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ; tuy nhiên, bán cổ phần này đã dẫn đến thông tin cổ đông sáng lập thì phải thực hiện thủ tục thay đổi thông tin cổ đông sáng lập theo thủ tục quy định tại Khoản 16 Điều 1 Nghị định 108/2018/NĐ-CP.
Cổ đông CTCP thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2020, kể từ thời điểm cam kết góp vốn, các thông tin cụ thể về thời điểm góp vốn phải được công ty cổ phần ghi trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Việc góp vốn có thể được các cổ đông sáng lập đăng ký góp thành nhiều đợt, đợt đầu được tính từ ngày công ty cổ phần bắt đầu thực hiện các hoạt động kinh doanh và đợt cuối chậm nhất không quá 90 ngày, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Quy định thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản không được tính vào thời hạn 90 ngày là điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Để đảm bảo tính khả thi, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung quy định là thời hạn góp vốn sẽ không bao gồm thời gian nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính trong trường hợp cổ đông góp vốn bằng tài sản. Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua quy định trong thời hạn 90 ngày nói trên, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. Trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác, người góp vốn trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm đã thanh toán việc mua cổ phần và những thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng ký cổ đông. Trường hợp sau thời hạn 90 ngày mà cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua thì thực hiện theo quy định sau đây: Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; Cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua (hết 90 ngày), công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ, trừ trường hợp số cổ phần chưa thanh toán đã được bán hết trong thời hạn này; đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập. Như vậy, so với quy định tại Luật Doanh Nghiệp 2014, điều luật sửa đổi khoản 4 nhằm mục tiêu ràng buộc thêm trách nhiệm của các cổ đông khi vi phạm quy định về góp vốn vào công ty cổ phần, bảo vệ lợi ích tốt hơn cho chủ nợ và bên thứ ba, hạn chế tình trạng khai khống vốn, không góp vốn đủ số vốn đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra khoản 5 đã được bổ sung nhằm xác định rõ ràng về thời điểm người góp vốn trở thành cổ đông công ty, giảm thiểu rủi ro cho người góp vốn, giảm thiểu tranh chấp trong công ty; góp phần bảo vệ lợi ích tốt hơn cho người góp vốn và công ty.
Xử lý trường hợp cổ đông không thanh toán cổ phần đã đăng ký mua
Căn cứ Khoản 1 và Khoản 2 Điều 112 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: "Điều 112. Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp 1. Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm giám sát, đôn đốc thanh toán đủ và đúng hạn các cổ phần các cổ đông đã đăng ký mua. 2. Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua quy định tại khoản 1 Điều này, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. 3. Nếu sau thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua, thì thực hiện theo quy định sau đây: a) Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; b) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; c) Số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; d) Công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định tại khoản 1 Điều này. [...]" => Như vậy, trong trường hợp đã hết 90 ngày kể từ ngày nhận được giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà cổ đông của công ty chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua thì đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; công ty phải tiến hành đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Đồng thời, tham khảo về việc điều chỉnh vốn điều lệ công ty được nêu tại Điều Công văn 6811/BKHĐT-ĐKKD như sau: "3. Trường hợp trong thời hạn đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ theo quy định tại Khoản 4 Điều 48, Khoản 3 Điều 74, điểm d Khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014, phần vốn góp, cổ phần chưa thanh toán được bán hết cho các thành viên, cổ đông còn lại hoặc tổ chức, cá nhân khác thì công ty không phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ. [...] - Trường hợp việc bán phần cổ phần chưa thanh toán dẫn đến thay đổi thông tin cổ đông sáng lập công ty cổ phần: Hồ sơ thông báo thay đổi thông tin cổ đông sáng lập thực hiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, trong đó, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần được thay thế bằng quyết định chào bán cổ phần chưa thanh toán của Hội đồng quản trị và giấy tờ chứng minh hoàn tất việc bán cổ phần. [...]" => Như vậy, đối với việc cổ đông khác của công ty muốn mua lại hết số cổ phần chưa thanh toán thì công ty không phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ; tuy nhiên, bán cổ phần này đã dẫn đến thông tin cổ đông sáng lập thì phải thực hiện thủ tục thay đổi thông tin cổ đông sáng lập theo thủ tục quy định tại Khoản 16 Điều 1 Nghị định 108/2018/NĐ-CP.