NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
12-TT/TD/CB
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1961
|
THÔNG TƯ
BỔ SUNG VÀ SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỂM VỀ BIỆN PHÁP CHO VAY TRONG ĐỊNH
MỨC TIÊU CHUẨN VỐN LƯU ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Để thi hành Quyết định số
054/TTg ngày 19-2-1959 của Thủ tướng Chính phủ ngày 26-2-1959. Ông Tổng giám đốc
Ngân hàng Nhà nước đã ra Nghị định số 31/VP/Ngđ ban hành biện pháp tạm thời cho
vay trong định mức vốn lưu động đối với các xí nghiệp quốc doanh. Từ đó đến nay
việc thực hiện loại cho vay này đã có tác dụng tiết kiệm vốn cho Nhà nước, tăng
tốc độ luân chuyển vốn, tạo điều kiện cần thiết để Ngân hàng Nhà nước đặt quan
hệ tín dụng thường xuyên với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và thông qua
công tác cho vay, Ngân hàng Nhà nước đã cùng với các cơ quan lãnh đạo xí nghiệp,
các cơ quan Tài chính bước đầu thi hành việc kiểm soát bằng đồng tiền đối với
hoạt động kinh tế của các xí nghiệp, giúp các xí nghiệp hoàn thành tốt kế hoạch
Nhà nước về mọi mặt.
Để giúp đỡ các xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh chấp hành chính sách tài chính, tiền tệ và tín dụng được tốt,
đồng thời đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước
ra thông tư này để bổ sung biện pháp cho vay trong định mức tiêu chuẩn vốn lưu
động đối với các xí nghiệp quốc doanh.
Nội dung gồm có 4 phần:
1. Cách cho vay.
2. Cách thu nợ.
3. Cách kiểm tra và biện pháp xử
lý.
4. Thủ tục giấy tờ.
I. CÁCH CHO
VAY
Căn cứ tinh thần Quyết định số
054/TTg, ngày 19-2-1959 của Thủ tướng Chính phủ là: sau khi kế hoạch thu chi
tài vụ của xí nghiệp công nghiệp quốc doanh được xét duyệt, ngân sách Nhà nước
chỉ cấp thẳng cho xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tối đa 70% vốn lưu động định
mức, số còn lại sẽ do Bộ Tài chính hay Bộ chủ quản xí nghiệp chuyển sang Ngân
hàng để cho vay và ghi vào tài khoản “Vốn do tài chính chuyển sang để cho vay
trong định mức”.
Việc cho vay trong định mức vốn
lưu động đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tiến hành theo tài khoản
cho vay đặc biệt và trong phạm vi mức cho vay đã quy định. Từ tài khoản này,
Ngân hàng cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh vay để:
1. Trả các giấy tờ thanh toán về
vật tư đã được xí nghiệp chấp nhận.
2. Hoàn lại số tiền mà xí nghiệp
đã mua vật tư bằng tín dụng thu hay tài khoản đặc biệt.
3. Hoàn lại những phương tiện mà
xí nghiệp đã trả từ tài khoản thanh toán của xí nghiệp để dự trữ vật tư trong định
mức, nghĩa là xí nghiệp đã dùng các khoản tiền khác trong tài khoản tiền gửi,
như lợi nhuận hay khấu hao để thanh toán hóa đơn mua hàng, nay cần hoàn lại để
nộp cho Nhà nước, Ngân hàng có thể cho vay nếu xí nghiệp có xuất trình chứng từ
hóa đơn thuộc vật tư trong tháng đó.
4. Trả các khoản chi phí sản xuất
khác theo bảng kê vật tư dự trữ thực tế của xí nghiệp về sản phẩm đang chế tạo
và thành phẩm.
5. Trả bằng tiền mặt nguyên vật
liệu thu mua trực tiếp với nông dân cá thể.
II. CÁCH THU
NỢ
Ngân hàng cho các xí nghiệp vay
trong định mức vốn lưu động là tham gia vào phần góp vốn lưu động cần thiết
trong luân chuyển thường xuyên của xí nghiệp, do đó không thể ấn định được mức
độ thu nợ cụ thể cho một thời hạn cụ thể như các loại cho vay khác của Ngân hàng.
Xí nghiệp chỉ có thể trả nợ về loại cho vay này sau khi tiêu thụ sản phẩm đã có
thu tiền.
Vì vậy, cách thu nợ loại cho vay
trong định mức quy định như sau:
- Mỗi lần xí nghiệp thu tiền bán
hàng hay được vay giấy tờ thanh toán trên đường đi về chuyển cho sản phẩm (tiêu
thụ). Ngân hàng sẽ trích từ tài khoản thanh toán để thu nợ một phần số tiền bán
hàng tính theo giá thành kế hoạch công xưởng, ngang với mức tỷ lệ tham gia cho
vay trong định mức tiêu chuẩn kế hoạch của thành phẩm.
- Ngoài ra, nếu trên tài khoản
thanh toán còn có tiền mà xí nghiệp chưa sử dụng, muốn trả bớt nợ cho Ngân hàng
thì Ngân hàng sẽ thu theo đề nghị của xí nghiệp.
- Việc thu nợ cho vay trong định
mức tiêu chuẩn sẽ tiến hành theo quy định của chế độ trật tự thanh toán.
III. KIỂM TRA
ĐẢM BẢO VÀ CÁCH XỬ LÝ
Nguyên tắc vốn cho vay của Ngân
hàng phải có vật tư đảm bảo, phải được quán triệt thi hành đối với mọi hình thức
cho vay.
Việc cho vay trong định mức đối
với các xí nghiệp phải hạn chế trong phạm vi mức kế hoạch đã được duyệt y, mức
bao nhiêu thì cho vay bấy nhiêu, quy định sử dụng vốn vào việc gì thì làm việc ấy.
Do đó nguyên tắc chung là xí nghiệp không được dùng vốn vay dự trữ vật tư trong
định mức của (nhóm) vật tư (yếu tố) này để dự trữ vật tư trên định mức của nhóm
vật tư khác. Nhóm (yếu tố) vật tư nói ở đây quy định các khoản trong bảng cân đối
như sau:
1. Nguyên vật liệu chính.
2. Vật liệu phụ.
3. Nhiên liệu.
4. Bao bì đóng gói.
5. Phụ tùng thay thế sửa chữa.
6. Vật rẻ tiền mau hỏng.
7. Sản phẩm đang chế tạo và bán
thành phẩm tự chế.
8. Phí tổn đợi phân bố.
9. Thành phẩm.
10. Hàng hóa mua ngoài.
Tuy nhiên, do tính chất riêng biệt
của loại cho vay định mức vốn lưu động để phục vụ kịp thời cho xí nghiệp, khi
cho vay chỉ lấy mức tham gia của Ngân hàng trong toàn bộ số vốn định mức của xí
nghiệp để khống chế số dư nợ, nhưng sau khi cho vay phải kiểm tra số vật tư làm
đảm bảo cho vay theo từng nhóm vật tư như đã nói ở trên.
Để tiến hành việc kiểm tra, mỗi
tháng một lần, xí nghiệp phải gửi cho Ngân hàng bảng kê dự trữ vật tư thực tế của
xí nghiệp trong tháng trước. Căn cứ vào bảng này, Ngân hàng lên bảng tính toán
kiểm tra, lấy số dư nợ vay trong định mức, cuối tháng đối chiếu với số dư vật
tư dự trữ thực tế đảm bảo cho loại vay trong định mức xem thừa hay thiếu mà có
biện pháp xử lý:
- Nếu đảm bảo thừa thì có thể
cho vay thêm theo yêu cầu của xí nghiệp.
- Nếu đảm bảo thiếu, Ngân hàng
thu hồi nợ trong định mức đã cho vay qua hoặc chuyển nợ quá hạn nếu tài khoản
thanh toán không có đủ tiền, hoặc cho vay dự trữ vật tư trên định mức theo thể
lệ hiện hành.
IV. THỦ TỤC
GIẤY TỜ
Hàng tháng, khi bộ phận kế toán
tài vụ của xí nghiệp đã tập trung được số liệu phần tài sản định mức thực tế để
chuẩn bị lên bảng tổng kết tài sản thì đồng thời cung cấp số liệu ấy cho Ngân
hàng làm bảng tính toán kiểm tra đảm bảo mà không cân đối xí nghiệp làm xong
báo cáo kế toán.
Xí nghiệp vay tiền phải làm đơn
xin vay lần đầu căn cứ vào thông báo chỉ tiêu của Ngân hàng. Còn mỗi lần vay
sau, xí nghiệp chỉ cần xuất trình hóa đơn, giấy đòi nợ hay bảng kê vật tư, và
làm giấy chuyển tiền (để trả cho người bán hàng) hay giấy nhận bằng tiền mặt.
Lãi suất trả cho Ngân hàng của
loại cho vay trong định mức ấn định 0,2% một tháng.
Các Chi nhánh, Chi điếm Ngân
hàng cần nghiên cứu kỹ chỉ thị hướng dẫn cụ thể kèm theo thông tư này để thi
hành được tốt.
|
Q.
TỔNG GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Tạ Hoàng Cơ
|