BỘ
NỘI THƯƠNG
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số: 46-NT
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 01 năm 1963
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC BAN HÀNH “ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ CÔNG TÁC CỦA CỬA HÀNG BÁN LẺ”
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI THƯƠNG
Căn cứ Nghị định số 80-CP ngày
16 tháng 7 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy của Bộ Nội thương;
Nhằm mục đích nâng cao văn minh thương nghiệp và trình độ tổ chức của cửa hàng
bán lẻ;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức kỹ thuật,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành “ Điều lệ tạm thời về công tác của
cửa hàng bán lẻ ở thành thị” và “Điều lệ tạm thời về công tác của cửa hàng bán
lẻ ở nông thôn và khu phố nhỏ kèm theo quyết định này ”.
Điều 2. – Quyết định này có giá trị thi hành từ ngày ký;
các điều quy định trước đây trái với Quyết định này đều bãi bỏ.
Điều 3. – Các ông Chánh văn phòng Bộ, Vụ trưởng vụ Tổ chức
Kỹ thuật, Trưởng ban Thanh tra Bộ, các ông Vụ trưởng, Cục trưởng các Vụ, Cục
trực thuộc Bộ, Ủy ban hành chính các cấp, các ông Giám đốc, Trưởng Ty các Sở,
Ty thương nghiệp khu, thành, tỉnh, các ông Trưởng phòng Thương nghiệp thị xã,
huyện, khu phố có nhiệm vụ thi hành và kiểm tra việc chấp hành quyết định này.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI THƯƠNG
THỨ
TRƯỞNG
Nguyễn Văn Đào
|
ĐIỀU LỆ
TẠM THỜI
VỀ CÔNG TÁC CỦA CỬA HÀNG BÁN LẺ Ở THÀNH
THỊ
I. NGUYÊN
TẮC CHUNG
Điều 1. - Thời gian và giờ giấc bán hàng:
a) Tất cả các
loại cửa hàng, cửa hiệu, quày hàng, quán hàng, thuộc màng lưới thương nghiệp bán
lẻ và phục vụ của quốc doanh, hợp tác xã mua bán, công tư hợp doanh, hợp tác xã
tiểu thương và các ngành có kinh doanh thương nghiệp đều phải mở cửa hàng theo
giờ giấc nhất định, trên nguyên tắc là thuận lợi cho khách hàng và hợp lý hóa
tổ chức lao động cửa hàng;
Thời gian mở cửa
hàng phải phù hợp với điều kiện mua bán và sinh hoạt của nhân dân ở địa phương,
không theo như giờ làm việc của các cơ quan hành chính.
b) Giờ mở cửa
và đóng cửa hàng do Sở, Ty Thương nghiệp quy định cụ thể cho từng loại cửa hàng
trong tỉnh. Ngày giờ làm việc, nghỉ ngơi phải thông báo cho nhân dân biết.
c) Cửa hàng không
được tự động nghỉ bán hàng trong ngày, giờ đã quy định phải mở cửa, nếu vì lý
do cần thiết phải nghỉ như tổng kiểm kê, sửa chữa nhà cửa và đã được Sở, Ty
Thương nghiệp, Phòng Thương nghiệp huyện cho phép thì phải thông báo trên bảng
đen cho nhân dân biết trước hai ngày, các cửa hàng lớn ở các thành phố ngoài
việc thông báo bằng bảng đen, có thể đăng báo trước 48 giờ nếu nghỉ bán hàng từ
một ngày trở lên. Trên thông báo nghỉ bán hàng cần chỉ dẫn cho khách hàng biết
địa chỉ cửa hàng có thể thay thế gần nhất.
d) Những cửa hàng
có quy định giờ nghỉ bán hàng để ăn cơm thì thời gian nghỉ không được tính vào
thời gian bán hàng đã quy định. Phải có biển để “Tạm nghỉ ăn cơm” từ mấy giờ
đến mấy giờ để thông báo cho khách hàng biết, nếu cửa hàng đông khách phải báo
trước 15 phút (nghỉ ăn cơm hay nghỉ bán hàng, khách còn lại trong cửa hàng đã
có biên lai, hóa đơn, phiếu mua hàng, đã chọn xong thì phải bán cho hết mới nghỉ).
e) Những cửa hàng
bán thông kíp 8 giờ, mỗi nhân viên bán hàng được luân phiên nhau nghỉ 30 phút
để ăn cơm.
Điều 2. – Trang trí cửa hàng, trình bày quảng cáo
hàng hóa:
a) Tường cửa hàng
phải giữ nước vôi sạch sẽ. Khung và cánh cửa ra vào, cửa sổ, chấn song không được
để mốc hoặc han rí bụi bậm. Phía trước, đằng sau, xung quanh địa điểm cửa hàng
phải khô ráo, quang đãng, bảo đảm vệ sinh chung. Những cửa hàng ở sát nhân dân
phải thi hành đúng thể lệ vệ sinh phòng hỏa, phòng gian, phòng bão, lụt của khu
phố.
b) Cửa hàng phải
có bảng tên bằng gỗ, sơn màu kẻ chữ có kích thước tương xứng với quy mô cửa
hàng và treo ở đằng trước nơi chính diện cửa hàng.
c) Hàng hóa
trình bày trong các tủ, quày trên giá phải có trật tự, sạch sẽ, gọn gàng, đẹp mắt.
d) Hàng mẫu bày
ở các tủ kính, trên quày, trên giá phải có biển giá, loại, cỡ và số viết bằng
chữ số ngay ngắn, nét to đứng xa 3 mét trông thấy rõ ràng. Hàng hóa mới về lần
đầu cần có biển giá giới thiệu công dụng, chất lượng và cách dùng để cho khách
hàng đỡ phải hỏi. Hàng hóa đã bán hết phải cất mẫu ở các nơi trình bày.
Tất cả các biển
giá, biển giới thiệu hàng hóa phải trình bày có mỹ thuật để ngay vào hàng hóa
mang tên nó, không được để lẫn giá hàng này sang giá hàng khác. Hàng hóa bày
mẫu với mục đích để triển lãm phải bày riêng một tủ kính có biển ghi rõ “hàng
mẫu bày để triển lãm chưa bán hoặc không bán”.
c) Tùy theo quy
mô và phạm vi hoạt động của từng cửa hàng mà tổ chức phần việc chuyên trách tuyên
truyền quảng cáo thương nghiệp.
Điều 3. - Sắp xếp nơi bán hàng:
a) Cửa hàng phải
quy định nơi bày hàng mẫu, nơi bán hàng kém phẩm chất riêng, nơi bán cung cấp
có trừ phần trăm riêng và nơi bán lẻ riêng, nơi để hàng bán ra trong một ngày
và dự trữ bán ra những ngày hôm sau. Những nơi để hàng hóa khác nhau trên đây
phải riêng biệt, tránh nhầm lẫn trong giờ kiểm kê bàn giao kíp hay trong khi
bán khỏi lầm lẫn giá, thanh toán được chính xác rành mạch.
b) Hàng hóa để
bán ra trong ngày và hàng dự trữ phải sắp xếp thành đơn vị chục, tá, trăm. Mặt
hàng nào để ở vị trí của mặt hàng đó gọn gàng, trật tự. Phải có sổ nhập xuất
tiền hàng và phiếu theo dõi hàng bán ra.
c) Cửa hàng phải
trang bị tương đối đầy đủ các loại thiết bị cần thiết để bán, bảo quản, vận
chuyển, bốc dỡ hàng hóa để tạo điều kiện tăng hiệu suất công tác và giảm nhẹ
điều kiện lao động và bảo đảm phục vụ tốt khách hàng.
Điều 4. - Thực hiện chính sách và phương pháp bán hàng:
- Khi có chính
sách hoặc thể lệ bán lẻ và phân phối mặt hàng nào thì cửa hàng trưởng phải phổ
biến kỹ cho toàn thể nhân viên cửa hàng nhất là cho tổ hoặc nhân viên bán mặt
hàng đó nắm vững để giải thích cho khách hàng và chấp hành cho đúng, đồng thời
có niêm yết và công bố cho người mua biết.
Cửa hàng trưởng
phải thường xuyên kiểm tra ngăn ngừa những việc vi phạm chính sách, thể lệ, lợi
dụng hoặc cảm tình nể nang trong việc mua bán.
Điều 5. – Giá cả:
a) Tất cả các
loại hàng hóa đưa ra quày bán đều phải có giá bán lẻ đơn vị.
- Giá bán lẻ do
Nhà nước đã quy định phải được thống nhất thi hành ở tất cả các cửa hàng. Cửa
hàng không có quyền thay đổi giá bán lẻ chỉ đạo;
- Hàng hóa kém
phẩm chất hoặc lệch đôi, lệch bộ cần phải hạ giá bán ra thì cửa hàng làm báo
cáo đề nghị cơ quan quản lý cấp trên quyết định;
- Tất cả giá bán
ra đều phải thông báo bằng văn bản chính thức, mỗi tổ bán hàng phải có sưu tập
văn bản giá chỉ đạo bán ra. Sưu tập này được coi là tài liệu chính của tổ và
đăng ký vào sổ kê khai tài sản của tổ;
- Hàng bày mẫu,
hàng để ở vị trí bán ra phải có biển ghi tên hàng, giá đơn vị bán lẻ. Biển giá
phải làm bằng giấy cứng, viết chữ ngay ngắn bằng mực;
- Mỗi nơi bán
hàng phải có bảng giá chung thông báo giá bán lẻ đơn vị của tất cả mặt hàng có bán.
Mặt hàng nào hết nguyên tắc là xóa tên: gạch mực hoặc dán giấy trắng ghi chữ
“hết” vào cột ghi chú nếu có. Mỗi khi có thêm mặt hàng mới đưa ra quày bán thì
phải bổ sung vào bảng giá chung. Nếu có giá mới điều chỉnh lên hay điều chỉnh
xuống phải ghi cả hai giá:
- Khi có giá điều
chỉnh phải thông báo bằng phát thanh, bằng bảng đen, bằng báo chí nếu có điều
kiện cả hai giá: giá cũ, giá mới;
- Hàng kém phẩm
chất được phép hạ giá và bán ra phải ghi rõ tên ký hiệu hàng hóa, tỷ lệ phần
trăm mất phẩm chất, lý do kém phẩm chất, giá hàng còn tốt 100%, giá bán hạ.
Biển giá phải có chữ ký của cửa hàng trưởng và dấu của cửa hàng;
- Trên biển giá
của mặt hàng mới sản xuất, nhân dân chưa quen dùng, phải ghi rõ: tên, ký hiệu,
giá bán lẻ đơn vị, công dụng, cách dùng, tên xí nghiệp và nơi sản xuất;
- Nếu có giá thay
đổi, cửa hàng trưởng hay người thay mặt phải đến phổ biến cho mậu dịch viên hay
tổ bán hàng bằng văn bản và ghi ngày, ký tên xác nhận giá mới vào sổ theo dõi
giá của quày hàng hay của tổ bán hàng. Việc phổ biến giá phải làm trước hay sau
giờ bán hàng trong ngày. Trước khi thay đổi giá của mặt hàng nào đó, phải kiểm
kê số lượng tồn tại của hàng. Xác định số lượng tồn xong mới được phổ biến giá
mới.
Điều 6. – Bảo mật và bảo vệ tài sản của cửa hàng:
a) Mọi người trong
cửa hàng phải tuyệt đối giữ gìn bí mật kinh tế Nhà nước, không để cho người
ngoài biết lực lượng hàng hóa, tồn kho, kế hoạch mua vào, bán ra.
Người không có
trách nhiệm không được vào kho hàng hoặc nơi sản xuất chế biến hàng hóa.
b) Cửa hàng, kho
hàng phải khóa cửa trong những giờ không làm việc. Thìa khóa cửa hàng và kho
hàng phải do cán bộ phụ trách đơn vị có trách nhiệm về tài sản giữ.
- Ở cửa hàng nhỏ
thì do cửa hàng trưởng, nếu đi vắng thì người thay quyền giữ;
- Ở cửa hàng có
cửa hàng trưởng, cửa hàng phó, nguyên tắc, cửa hàng trưởng phải giữ;
- Ở cửa hàng lớn
có nhiều tổ bán hàng, có tổ chức đội bảo vệ thì người thủ trưởng đơn vị bảo vệ
giữ thìa khóa của các cửa ra vào cửa hàng, kho hàng.
c) Hàng hóa, công
cụ, dụng cụ của cửa hàng đã giao cho kho nào thì thủ kho của kho đó phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm mọi mặt về số lượng và chất lượng. Thìa khóa của kho nào
thì thủ kho của kho đó giữ và giao cho người thường trực bảo vệ cửa hàng và kho
sau giờ làm việc nếu về nghỉ ở nhà riêng.
- Ở tổ bán hàng,
tổ trưởng và tổ phó bán hàng giữ thìa khóa của tủ hàng mẫu, của kho tay trong
giờ làm việc. Sau khi tổng kết ngày bán hàng và trước khi về nghỉ, tất cả thìa
khóa đó phải giao cho người thường trực bảo vệ;
- Trong giờ bán
hàng, nhân viên bán hàng ở quày nào phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hàng hóa,
tiền bạc, công cụ dụng cụ và tài sản khác đã được cửa hàng, tổ bán hàng giao
cho về số lượng và chất lượng;
- Những tài sản
khác đã được phân phối cho tổ bán hàng cho từng nhân viên bán hàng, tất cả các
nhân viên cửa hàng đều có trách nhiệm bảo quản chống sử dụng bừa bãi. Nếu không
có sự đồng ý của người có trách nhiệm quản lý cho mượn không ai được quyền lấy
đồ dùng làm việc của người khác kể cả giấy bọc, giây buộc, bao bì,vv…
d) Cửa hàng phải
có dụng cụ phòng cứu hỏa, phòng chống lụt bão, phải có sự bảo quản và phân công
người phụ trách. Kế hoạch phòng chống hỏa, bảo lụt phải xây dựng chu đáo, phổ
biến đến tất cả mọi nhân viên cửa hàng, kho, phải có phân công phụ trách từng
việc và có kế hoạch tập dượt.
- Tuyệt đối không
được khóa cửa hàng, kho hàng mà không có người thường trực bảo vệ.
Điều 7. – Quan hệ giữa khách hàng với cửa hàng:
a) Cửa hàng có
từ ba nơi bán hàng trở lên, bàn giấy của cửa hàng trưởng phải đặt sát cạnh những
nơi bán hàng, có biển để rõ các chữ: “Bàn làm việc của cửa hàng trưởng”. Ở địa
điểm dễ thấy nhất, để khách hàng có việc gì cần hỏi không phải tìm kiếm và chờ
đợi lâu.
b) Mỗi cửa hàng,
cửa hiệu, mỗi quày bán hàng độc lập, mỗi tổ lưu động của cửa hàng đều phải có
sổ “Góp ý kiến và xây dựng của khách hàng” đã được Bộ quy định và ban hành ngày
11 tháng 9 năm 1962 bằng công văn số 3012-NT-TC.
c) Ngoài sổ “Góp
ý và xây dựng của khách hàng” mỗi cửa hàng có thể tổ chức thêm “Hòm thư góp ý
của khách hàng”.
d) Tùy theo tình
hình thực tế của cửa hàng ở từng khu vực khác nhau, cửa hàng phải tổ chức họp
mặt với đại biểu gia đình khách hàng trong phạm vi hoạt động của mình hoặc một
tháng, hoặc hai hay ba tháng một lần để lấy ý kiến phê bình, nhận xét và góp ý
kiến xây dựng cửa hàng.
II. NGUYÊN
TẮC GIAO NHẬN HÀNG HÓA
Điều 8. - Tiếp nhận hàng hóa:
a) Cửa hàng trưởng
có trách nhiệm theo dõi đôn đốc việc nhập hàng hóa. Phải nắm vững lịch nhập
hàng để báo cho thủ kho chuẩn bị công tác tiếp nhận hàng hóa.
b) Chỉ có cửa
hàng trưởng, thủ kho và những người được phụ trách cửa hàng ủy nhiệm từng chuyến
hàng mới có quyền nhận hàng hóa.
Tất cả hàng hóa
ở các nguồn hàng khác nhau ở bên ngoài vào cửa hàng đều do kho cửa hàng tiếp
nhận; một số ít mặt hàng ăn chín không cần qua kho để bao gói (bánh, hoa quả
tươi, dò chả, vv…), thì bộ phận kế toán có nhiệm vụ kiểm soát hóa đơn, hàng hóa,
làm phiếu nhập kho và xuất kho giao ngay cho tổ bán hàng. Hết sức tránh tình
trạng “bán hàng hóa trước rồi mới nhập, xuất hợp thức bằng giấy tờ sau”.
c) Hàng hóa nhập
kho phải có đủ chứng từ: hóa đơn, phiếu xuất kho, phiếu vận chuyển, hợp đồng
hay đơn đặt hàng. Hàng hóa giao cho cửa hàng chưa có giá không được nhập kho
hoặc có đủ chứng từ nhưng chưa có hàng cũng không được nhập vào sổ. Cửa hàng
chỉ được nhập kho hàng hóa có đủ chứng từ và có giá bán lẻ đơn vị.
d) Việc tiếp nhận
hàng hóa phải tiến hành hai bước:
Bước 1.
– Kiểm tra số lượng và bên ngoài hòm, kiện, ký mã hiệu ghi trên bao bì,
tên nhà máy, dấu xi, chì, nút buộc, vành đai, giấy dán bảo đảm.
Kiểm tra và đối
chiếu các chứng từ kèm theo hàng hóa.
Bước 2.
– Nghiệm thu hàng hóa đúng thủ tục tiếp nhận theo số lượng và thủ tục theo chất
lượng.
1. Nếu là hàng
giao lẻ thì nhận phẩm chất, đơn vị cái, chiếc, đôi, bộ, cân lạng, thước tấc,
hình thể nguyên vẹn và thời hạn bảo đảm nếu có.
2. Nếu là hàng
giao nguyên đai, nguyên kiện thì nhận theo dấu xi, cập chì, giấy dán bảo đảm,
giây chằng nút buộc,vv… cộng với tình trạng bao bì nguyên lành hay thủng vỡ,
khô hay ướt, phải cân lại để đối chiếu trọng lượng thực tế với trọng lượng viết
trên bao bì. Nếu xảy ra thừa thiếu, mặt hàng sai quy cách phải làm biên bản và
báo cáo ngay cho nơi gửi hàng.
Nếu hòm, kiện
có vết chảy ướt hay mất dấu xi, chì, giấy bảo đảm vv… thì phải cân lại và mở ngay
trước mặt nhân viên giao hàng và làm biên bản hai bên giao nhận cùng ký nếu xảy
ra mất mát hay hỏng vở.
3. Khi mở các
hòm, bao đã nhận theo nguyên đai, nguyên kiện phải có cửa hàng trưởng hay người
được ủy quyền phụ trách kế toán cửa hàng, phụ trách kinh doanh cửa hàng chứng kiến.
Nếu có thiếu số lượng hay sai mặt hàng phải lập biên bản quy trách nhiệm và gửi
cho nơi gửi hàng theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng mua hàng.
4. Khi mở hòm,
thùng, bao, phải chú ý giữ gìn bao bì. Nhận hàng có bao bì ngoài phải có sổ
nhập và theo dõi bao bì, khi xuất hàng phải ghi cả thời gian thu hồi bao bì. Bao
bì là tài sản của cửa hàng phải có chế độ nhập xuất thanh toán như hàng hóa.
Điều 9. – Giao nhận hàng hóa giữa kho cửa hàng và quày bán
hàng:
a) Việc giao nhận
hàng hóa: giữa kho của cửa hàng với tổ bán hàng phải theo đúng nguyên tắc: giao
nhận hàng lẻ theo thủ tục nhận cả số lượng, trọng lượng và chất lượng và phải
được bảo đảm về hình thức, trọng lượng và chất lượng.
Trường hợp vì
hoàn cảnh khách quan chưa cho phép thực hiện đầy đủ nguyên tắc này thì đối với một
số mặt hàng có thể nhận hàng nguyên gói, nguyên hộp (không được nhận nguyên kiện,
nguyên hòm). Gói hay hộp phải có dấu niêm phong không có dấu vết đã bị mở.
b) Hàng hóa xuất
ra, tổ bán hàng phải có phiếu xuất, trên phiếu xuất phải ghi rõ tên, ký hiệu
mặt hàng, số lượng, trọng lượng nếu có, giá bán lẻ đơn vị. Tổ nhận hàng ra quày
ngày nào phải vào sổ của tổ, quày ngay ngày hôm đó.
c) Mỗi cửa hàng
tùy theo điều kiện và mức tiêu thụ hàng ngày mà quy định mức hàng dự trữ ở nơi
bán hàng đảm bảo số lượng có đủ bán ra một ngày và mỹ thuật trình bày sắp xếp
hàng hóa ở vị trí để hàng bán ra từng ngày.
III. BẢO
QUẢN VÀ CHUẨN BỊ HÀNG BÁN RA.
Điều 10.
1. Bảo quản
hàng hóa:
- Hàng hóa để
ở kho cửa hàng, ở nơi dự trữ của tổ bán hàng, nơi quày hàng mẫu vv… phải được bảo
đảm số lượng và chất lượng như khi mới nhận;
- Để đảm bảo số
lượng và chất lượng, tránh hao tổn hàng hóa vì vệ sinh kém, hấp hơi, vì gậm nhấm,
mối xông vv… cửa hàng phải xây dựng chế độ bảo quản hàng hóa như: chế độ bảo
hàng, sắp xếp, chế độ phòng hỏa, bão lụt, phòng trộm cắp phá hoại, và chế độ
kiểm tra kho thường kỳ và nội quy ra vào nơi để hàng.
2. Chuẩn
bị bán ra:
- Tùy theo tính
chất của hàng hóa mà chuẩn bị và sửa sang lại hàng hóa trước khi chuyển vào
quày để bán hay làm tại quày các việc như lau chùi chai lọ, dụng cụ, cắt trước
hay cân gói trước thành những đơn vị lạng, gói,vv… Hàng hóa đem ra bán phải
được bảo đảm phẩm chất tốt, thành bộ, thành đôi, nếu hỏng phải được sửa chữa
lại mới đem ra bán;
- Căn cứ vào tình
hình dự trữ hàng hóa, chính sách tiêu dùng từng thời kỳ mà nghiên cứu tính toán
số lượng bán ra trong một ngày của từng mặt hàng (bán thỏa mãn, bán theo định
lượng).
Trước khi bán
hàng phải:
- Tủ quày, giá
để hàng và hàng hóa, dụng cụ bán hàng phải được làm vệ sinh và sắp xếp có trật
tự ở vị trí đã quy định.
- Kiểm tra lại
các biểu giá, cân, thước và soát lại bảng đen thông báo hàng hóa, bảng giá
chung;
- Chuẩn bị giấy
gói, dây buộc đủ bảo đảm bao gói cho từng thể tích mặt hàng, và tiền lẻ để trả
lại khách hàng;
- Năm phút trước
giờ mở cửa, nhân viên bán hàng phải có mặt ở quày, sửa soạn lại khăn áo và mặc
áo công tác đeo số hiệu. Tổ trưởng hay tổ phó phải đi kiểm soát lại một lượt.
IV. BÁN
HÀNG VÀ PHỤC VỤ KHÁCH HÀNG
Điều 11.
a) Hàng hóa phải
bán cho tất cả mọi người trên cơ sở bình đẳng và thanh toán bằng tiền mặt theo
nguyên tắc chung.
b) Phải chủ động
và tích cực, ân cần niềm nở và lịch sự chào mời giúp đỡ khách hàng, làm cho
khách hàng cảm thấy vui trong khi mua chọn hàng hóa.
c) Theo yêu cầu
của khách hàng, nhân viên bán hàng có nhiệm vụ chia nhỏ, bao gói kỹ những hàng
thực phẩm hay công nghệ phẩm đã mua xong.
d) Khi bán hàng
phải chú ý người đến trước mua trước, người đến sau mua sau. Cần phải tìm mọi
cách để tránh việc khách hàng phải xếp hàng mua hàng quá lâu.
Chỉ bán cho trẻ
em có đủ khả năng tự mua và thanh toán được số tiền hàng các em mua…
Những loại có
chất độc (như một số loại hóa chất) không được bán cho trẻ em chưa đến tuổi
thành niên.
c) Không được
làm việc riêng trong giờ bán hàng như may vá, xem truyện vv… phải tranh thủ giờ
vắng khách để xắp xếp, lau chùi vệ sinh hàng hóa.
Điều 12. – Bán hàng phải cân đúng, đo đúng:
a) Mỗi cửa hàng
bán loại hàng phải cân, đo, đong và phải có đủ cân, thước và dụng cụ đong lường
chính xác do Nhà nước quy định.
Hàng hóa bán ra
qua cân, đo, đong đều phải bán đủ trọng lượng, số lượng bằng giá trị số tiền mua
hàng không kể giấy bọc, dây buộc. Đo không được căng quá độ căng bình thường
của hàng hóa, đong phải bằng dụng cụ với đơn vị đo lường nhất định.
Việc cân, đo,
đong phải làm trước mắt khách hàng.
b) Cửa hàng có
từ ba nơi bán hàng cùng loại trở lên, phải có thước hay cân kiểm tra để ở nơi
dễ thấy nhất để khách cân, đong, đo lại. Nơi để cân hay thước phải có biển để
bằng chữ nét đậm “Thước hay cân kiểm tra”.
c) Những hàng
thực phẩm đã nấu chín như: thịt quay, ba-tê, dò, chả vv.. khi khách yêu cầu thái
nhỏ thì phải thái cho khách hàng và gói bằng giấy hay lá đảm bảo vệ sinh.
Điều 13. - Bọc, gói hàng hóa:
a) Tùy theo tính
chất của hàng hóa mà bao, gói, buộc để khách đem hàng về nhà được thuận tiện.
b) Những hàng
cồng kềnh không bao gói được phải buộc chặt chẽ, nếu khách đề nghị đóng hòm và thuận
trả tiền bao bì thì có thể bán bao bì và đóng gói cho khách.
c) Những loại
hàng để trần như: thịt tươi, cá tươi, phải có lạt xâu, thịt nguội, cá mắm phải có
giấy hay lá đảm bảo vệ sinh bao bọc, muối, đường phải gói. Hàng chất lỏng không
có bao gói cần cố gắng tổ chức bán cái đựng cho khách, hoặc có chế độ cược tiền
sau trả lại nếu khách hàng thỏa thuận.
Điều 14. – Hàng kém phẩm chất.
a) Không được
bán hàng kém phẩm chất lẫn với hàng hóa còn tốt nguyên.
b) Những hàng
hóa kém phẩm chất hoặc không giữ được hình dạng khi sản xuất như bẹp, méo, sứt,
mẻ nhưng còn giá trị sử dụng và đã được kiểm nghiệm mới được đem ra bán.
Phải có biển để
tên hàng hóa, giá cũ, giá mới. Cấm chỉ bán hàng thực phẩm đã quá thời hạn bảo
đảm, phẩm chất kém không bảo đảm được nguyên tắc vệ sinh về ăn uống…
Điều 15. – Đổi hàng đã mua:
a) Những loại
hàng công nghệ phẩm nguyên cái, nguyên chiếc, nguyên bộ… nguyên đôi không quy định
thời gian bảo đảm có thể đổi cho khách hàng với điều kiện:
1. Hàng đó thật
sự mua của cửa hàng;
2. Phẩm chất còn
tốt như khi mua;
3. Hộp, bao
bì còn nguyên không nát;
4. Lấy một thứ
hàng khác với giá tiền tương đương hay đắt hơn và trả thêm tiền. Thời gian quy
định được đổi trong 48 giờ.
b) Hàng hóa có
quy định thời hạn bảo đảm có thể đổi cho khách hàng, nếu phát hiện hàng hóa trong
thời gian đó không bảo đảm phẩm chất. Thời gian quy định được đổi trong 12 giờ.
c) Những hàng
thực phẩm, thuốc bệnh, thuốc bổ Đông, Tây y đã đã bán ra khỏi cửa hàng không nhận
trả lại, trừ trường hợp hàng đó kém phẩm chất rõ ràng hay bán sai tên hàng.
Hàng thực phẩm
kể cả hàng tươi và hàng khô hoặc đã đóng hộp, thuốc Đông, Tây y, khi khách hàng
trả lại phải để riêng ở một nơi để kiểm tra lại.
- Những thứ hàng
giá trị nhiều đã làm hóa đơn hoặc đã thanh toán ghi sổ bán hàng, muốn đổi hoặc
trả lại cho khách phải do cửa hàng trưởng hoặc người ủy quyền cho phép.
d) Đổi hàng để
thỏa mãn yêu cầu của khách là một hình thức phục vụ văn minh.
Trường hợp chưa
thực hiện đầy đủ điều 14 này cũng nên chú ý thực hiện trước tiên việc đổi cho
khách hàng những loại hàng may mặc sẵn (mũ đội, khăn quàng, giày dép) nếu cỡ
không phù hợp với người sử dụng nó. Để tránh thủ tục phiền phức, mỗi cửa hàng
cần có dấu hiệu riêng in vào mặt trái hàng hóa.
Nhất thiết không
đổi nếu hàng hóa đó có mua ở cửa hàng nhưng đã dùng một lần rồi, hoặc làm bẩn
làm hỏng sau khi đã trả tiền xong.
Điều 16.
a) Cấm ngặt việc
bán hàng hóa:
- Ngoài giờ giấc
đã quy định;
- Tại trong kho
hàng, nơi chuẩn bị hàng, nơi tiếp nhận hàng, đằng sau cửa hàng.
b) Không được
để giành những hàng hóa khan hiếm trên thị trường bán cho nhân viên cửa hàng. Nếu
là loại hàng cần thiết mà nhân viên cửa hàng cũng cần mua thì theo tiêu chuẩn
chung. Công đoàn hoặc tổ bán hàng sẽ cử người mua hộ cho anh chị em trong giờ
bán hàng.
c) Cấm chỉ việc
bán kèm cặp bắt khách hàng phải mua thứ hàng mà khách không đồng ý.
Điều 17.
a) Tại các cửa
hàng ở nông thôn, miền núi cần có chế độ thường trực bán hàng cho nhân viên trong
thời vụ sản xuất (ngoài giờ giấc của cửa hàng mở cửa theo quy định.).
b) Các thành phố,
thị xã cần có chế độ thường trực bán thuốc bệnh cho nhân dân vào những giờ đóng
cửa hàng các cửa hàng chính.
Điều 18. - Gửi hàng hóa đã mua ở quầy hàng:
Những hàng hóa
to, cồng kềnh, trọng lượng nặng (bàn, tủ, giường, ghế vv…) có thể được gửi lại
24 giờ đồng hồ ở cửa hàng sau khi khách đã mua và đặt tiền. Trên hàng hóa này
phải ghi “hàng đã bán” và một phiếu ghi giờ gửi lại và tên họ người mua. Ngoài
24 giờ khách không lại lấy và không có đề nghị kéo dài thời gian thì quày hàng
có thể bán hàng cho người khác và hoàn lại tiền gửi đặt cho khách mua trước.
V. THU
TIỀN BÁN HÀNG
Điều 19.
a) Hàng hóa bán
ra thu tiền ngay bằng tiền mặt hay ngân phiếu theo thể lệ chung cho tất cả các
cá nhân và tập thể.
b) Hàng hóa công
nghệ phẩm đơn giản bán theo phương thức thu tiền giao hàng trực tiếp.
Hàng hóa phức
tạp phải cân, đong, đo hay đặt tiền, hàng hóa có thời hạn bảo đảm bán theo cách
biên hóa đơn, thu tiền và giao hàng.
Hàng thực phẩm
ăn ngay không qua chế biến lại (trừ đồ hộp, hàng bao gói sẵn) cần có người thu
tiền riêng để đảm bảo vệ sinh thực phẩm.
Điều 20.
a) Toàn bộ tiền
bán ra ngày nào phải nộp đủ cho thủ quỹ cửa hàng hay phụ trách cửa hàng ngày đó
để nộp ngân hàng theo đúng chế độ quản lý tiền mặt của Bộ Nội thương và Ngân
hàng Nhà nước quy định.
b) Bộ phận kế
toán cửa hàng phải đối chiếu và kết toán hàng ngày số hàng bán ra với hóa đơn và
số tiền nộp.
c) Mỗi quày bán
hàng phải có sổ ghi tiền nộp hàng ngày cho thủ quỹ, thủ quỹ phải ký nhận vào sổ
đó từng ngày nộp coi như biên lai.
d) Mỗi nơi thu
tiền trong cửa hàng cần có một số tiền lẻ cần thiết để trả lại cho khách hàng,
số tiền này do cửa hàng xuất quỹ tạm ứng giao cho từng quầy.
Không được bắt
ép khách hàng lấy hàng lẻ để thay thế cho tiền lẻ khi phải trả tiền thừa lại của
khách hàng.
Nhân viên bán
hàng chịu trách nhiệm trước tổ và cửa hàng về thừa, thiếu tiền hàng thuộc phần mình
bán ra, tổ trưởng, tổ phó chịu trách nhiệm trước phụ trách cửa hàng về tiền,
hàng hóa do tổ phụ trách, cửa hàng trưởng chịu trách nhiệm trước cấp trên về
những tổn thất tài sản, hàng hóa của cửa hàng.
e) Việc bồi thường
các loại tổn thất về tài sản theo những quy tắc Bộ đã ban hành.
g) Tiền riêng
của nhân viên bán hàng không được để lẫn lộn với tiền bán hàng ở nơi bán hàng.
Nhân viên bán
hàng muốn mua thứ hàng gì ngay trong quầy của mình bán phải chờ khi bàn giao kíp
xong và mua ở người thay thế và trả lại tiền rành mạch.
VI. VỆ
SINH CỬA HÀNG, VỆ SINH CÁ NHÂN CỦA NHÂN VIÊN BÁN HÀNG
Điều 21. Xung quanh cửa hàng, nhà cửa và các thiết bị của
cửa hàng thường xuyên cần được giữ vệ sinh sạch sẽ và phải chấp hành đúng những
nguyên tắc vệ sinh đã quy định.
Điều 22.
a) Tất cả các
nhân viên cửa hàng phải mặc áo quần chỉnh tề và sạch sẽ, đầu tóc phải gọn gàng,
tay chân phải rửa kỹ và móng tay phải cắt ngắn.
b) Trong giờ làm
việc phải mặc áo mũ công tác và đeo số của cơ quan phát. Áo làm việc của cửa
hàng phải bằng thứ vải bền, may cùng kiểu, cùng màu để dễ phân biệt với khách
hàng và đỡ bẩn. Số hiệu phải rõ đứng xa 5 mét nom thấy. Áo ngoài và đồ dùng
riêng của các nhân viên cửa hàng cần có buồng riêng hoặc tủ riêng.
c) Mỗi cửa hàng
cần có buồng thay và để quần áo, đồ riêng của nhân viên bán hàng, có khăn lau,
xà phòng, chậu rửa cho nhân viên bán hàng trong giờ làm việc.
Điều 23. Nhân viên công tác ở cửa hàng thực phẩm, bánh
kẹo đều phải được khám sức khỏe trước khi nhận việc. Mỗi người phải có y bạ
chứng nhận sức khỏe của y, bác sĩ, cơ quan y tế Nhà nước.
Nhân viên tiếp
xúc với sản phẩm thức ăn thì từ một đến ba tháng phải được khám sức khỏe lại
một lần và phải được tiêm phòng bệnh khi cần thiết.
Điều 24. Mỗi một nhân viên cửa hàng phải chịu trách nhiệm
về việc chấp hành những nguyên tắc vệ sinh cá nhân và vệ sinh nơi làm việc của
mình. Phụ trách cửa hàng có nhiệm vụ tổ chức việc thực hiện vệ sinh và có trách
nhiệm chấp hành đúng những nguyên tắc về vệ sinh của cơ quan y tế đã ban hành.
Điều 25. Cấm ngặt việc để cho người lạ mặt vào những nơi
chế biến dự trữ bảo quản thực phẩm. Bất kỳ cán bộ nhân viên nào được phép vào
các nơi đó đều phải mặc áo công tác như nhân viên ở cửa hàng.
Điều 26. Cấm ngặt bày bán những thực phẩm ăn ngay được
trên bàn hay quầy không có hộp kính, tủ kính hay lồng bàn đậy kín. Nhân viên
bán hàng phải bố trí sắp xếp thế nào để những loại thực phẩm ăn ngay xa khách
hàng không để cho khách hàng với tay sờ mó tới được.
VII. GIẢI
QUYẾT NHỮNG VỤ HƯ HỎNG HÀNG HÓA
Điều 27. Tất cả những sự hao hụt hàng hóa, hư hỏng, biến
chất trong khi bảo quản, bán hàng, cũng như việc trừ bì ít đi, trừ hao đều phải
lập biên bản, được xác nhận có lý do chính đáng sẽ được khấu trừ theo thể lệ đã
quy định. Nếu không có lý do chính đáng hoặc do tinh thần trách nhiệm kém của
người nào thì người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường và xử lý theo thể lệ
Nhà nước đã quy định.
Điều 28. Thời hạn lập biên bản những việc đánh vỡ, biến
chất, hư hỏng hàng hóa không được quá 24 giờ, sau khi đã phát hiện. Còn việc
cần trừ hao, trừ hao bì thì theo thời hạn đã quy định trên hợp đồng kinh tế của
hai bên giao và nhận hàng do chế độ chung đã quy định.
Điều 29. Hàng hóa hoàn toàn không dùng được nữa phải do
hội đồng kiểm nghiệm hàng hóa có đại diện của cấp trên lập biên bản chứng nhận.
Sau khi lập biên
bản và được cấp có thẩm quyền duyệt, hàng hóa đó phải được chuyển vào một nơi
riêng biệt hoặc thu hồi hoặc tiêu hủy. Việc điều chỉnh giá trị hàng hóa cho từng
quầy có hàng được thu hồi phải được tiến hành thanh toán trong cuối kỳ kiểm kê.
Thời gian và quy
tắc tiến hành tiêu hủy những hàng hóa phải ghi vào mặt sau của biên bản.
VIII. KIỂM
KÊ - BÀN GIAO
Điều 30. Tùy theo tính chất của từng loại hàng hóa mà
tiến hành chế độ kiểm kê hàng hóa dưới đây:
a) Kiểm kê một
ngày một lần. Những loại hàng đơn giản cái, chiếc, đôi, hộp, bộ, bán theo phương
pháp định vị định lượng, kiểm kê tồn, bàn giao kíp (kể cả những loại hàng rẻ,
và đắt tiền.)
b) Kiểm kê 5 ngày
hoặc 10 ngày một lần. Tất cả những loại hàng rẻ tiền như đồ chơi trẻ em, tạp
phẩm (kim chỉ, khuy, ngòi bút vv…) bán theo chế độ giao hàng trị giá thanh toán
bằng tiền mặt và kiểm kê tồn.
c) Kiểm kê một
tháng một lần. Tất cả các loại hàng hóa đơn giản bán theo phương thức nhận tiền
trao hàng trực tiếp hay bán theo hóa đơn có thủ ngân riêng đều phải tổng kết
kiểm kê cuối tháng để xác định giá trị hàng hóa, đối chiếu tiền hàng sổ sách và
thanh toán dứt khoát.
Điều 31. Nhân viên bán hàng, thủ kho, phụ trách cửa hàng
được điều đi công tác khác, đi học, nghỉ phép vv… đều phải kiểm kê bàn giao xác
nhận trách nhiệm trước khi rời đơn vị.
Điều 32. Trường hợp kiểm tra tài sản về bất cứ lý do gì
để xác nhận một tổn thất hàng hóa hay thừa thiếu tài sản cũng phải tiến hành
kiểm kê.
Điều 33. Khi tiến hành kiểm kê hàng hóa, tài sản đều phải
chấp hành đúng các thể lệ, nguyên tắc của kế toán tài chính đã ban hành.
IX. ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH
Điều 34. Cửa hàng trưởng,cửa hàng phó có trách nhiệm
thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành điều lệ công tác của cửa hàng và
các phụ bản kèm theo tại cửa hàng chính, tại các lều hàng tổ bán hàng thuộc
phạm vi phụ trách.
Điều 35. Các ông Giám đốc, Trưởng Ty, Sở, Ty thương
nghiệp khu, thành, tỉnh có nhiệm vụ:
a) Cung cấp đầy
đủ cho mỗi cửa hàng bán lẻ thuộc phạm vi phụ trách điều lệ công tác của cửa hàng
và các phụ bản kèm theo. Tổ chức học tập thông suốt đến từng nhân viên cửa hàng
và phổ biến rộng rãi trong toàn ngành, trong nhân dân.
b) Giao trách
nhiệm cho Chủ nhiệm Công ty mậu dịch quốc doanh, phụ trách Ban quản lý hợp tác xã
mua bán nghiên cứu xây dựng nội quy cửa hàng và các điều lệ công tác cho nhân
viên cửa hàng thuộc ngành căn cứ vào “điều lệ của công tác cửa hàng” và các phụ
bản kèm theo.
- Nghiên cứu miễn
giảm thời gian đi họp của cửa hàng trưởng, cửa hàng phó, tổ trưởng, tổ phó tổ
bán hàng để họ chuyên tâm vào nghiệp vụ bán ra, vào việc quản lý cửa hàng;
- Trong điều kiện
cho phép, giải quyết những yêu cầu cần thiết về phương diện vật chất kỹ thuật
để nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp nhằm phục vụ tốt cho khách hàng và
quản lý tài sản được chặt chẽ.
c) Theo dõi, tổng
kết việc chấp hành điều lệ công tác của cửa hàng và các phụ bản kèm theo, đề
xuất ý kiến sửa đổi những điều chưa phù hợp, bổ sung những điều chưa hoàn chỉnh
và báo cáo thường kỳ về Bộ.
Điều 36. Điều lệ công tác của cửa hàng và các phụ bản kèm
theo cần được in thành sách nhỏ bỏ túi làm tài liệu học tập thường xuyên cho
nhân viên cửa hàng.
Điều 37. Những người có thành tích trong việc thi hành
điều lệ được đề nghị khen thưởng thích đáng. Mọi vi phạm sẽ tùy theo lỗi nặng
nhẹ mà xử lý theo sự quy định chung.
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ CÔNG TÁC CỦA CỬA HÀNG BÁN LẺ Ở NÔNG THÔN VÀ KHU PHỐ NHỎ
Điều 1. Những cửa hàng ở nông thôn, những quán hàng,
quày hàng ở khu phố nhỏ đều phải thi hành điều lệ tạm thời này.
Điều 2.
a) Thời gian làm
việc và giờ giấc mở cửa bán hàng phải phù hợp với điều kiện sản xuất và hoàn
cảnh sinh hoạt của nhân dân ở khu vực đó.
Thời gian hoạt
động của cửa hàng, tổ bán hàng thị trấn, huyện lỵ, khu phố nhỏ do Phòng Thương
nghiệp huyện, thị xã nghiên cứu, đề nghị,và Sở, Ty thương nghiệp khu, tỉnh,
thành duyệt. Các cửa hàng xã, thôn do Phòng Thương nghiệp quyết định.
b) Cửa hàng không
được tự động nghỉ bán trong ngày, giờ đã quy định phải mở cửa. Nếu vì lý do gì
cần phải đóng cửa nghỉ bán hàng thì phải được Phòng Thương nghệp huyện, khu phố
cho phép.
c) Phải có bản
niêm yết rõ ràng giờ bán hàng, giờ nghỉ, ngày nghỉ treo ở đằng trước cửa hàng.
Điều 3. Nhân viên phụ trách cửa hàng, tổ bán hàng, cửa
hàng xã, thôn chịu hoàn toàn trách nhiệm về hàng hóa, tiền bạc, tài sản khác
trong phạm vi quyền hạn được phân công phụ trách. Chịu trách nhiệm về chấp hành
các chính sách, thể lệ thương nghiệp, nguyên tắc và chế độ kế toán tài chính,
giá chỉ đạo bán lẻ của Nhà nước đã ban hành.
Thực hiện chế
độ trách nhiệm vật chất cá nhân bằng cách phân công mặt hàng dứt khoát cho từng
người. Nếu một số nhân viên hoặc tất cả nhân viên ở đơn vị tự nguyện chịu trách
nhiệm chung về toàn bộ tài sản của đơn vị (cửa hàng, tổ bán hàng, quán hàng) thì
phải lập giao ước được cấp trên trực tiếp công nhận chịu trách nhiệm chung về
vật chất. Mọi tổn thất tài sản, nếu không tìm được trách nhiệm riêng về cá nhân
nào thì toàn tổ phải bồi thường chung.
Điều 4. Nơi bán hàng phải trật tự, sạch sẽ, gọn gàng,
đẹp mắt. Phải có đủ diện tích bày hàng bán ra, diện tích dành cho khách mua
hàng. Phải có biển tên cửa hàng treo trước nơi bán hàng.
Điều 5. Cửa hàng phải tuyệt đối chấp hành đúng các chính
sách, chế độ, thể lệ thương nghiệp của Nhà nước, phương thức bán ra và nội quy
của cửa hàng. Cán bộ nhân viên cửa hàng phải nắm vững chính sách, thể lệ thương
nghiệp để tuyên truyền giải thích cho nhân dân.
Điều 6. Phải bán đúng giá bán lẻ đã được quy định, có
thể chia nhỏ đơn vị hàng ra để bán thuận tiện cho khách hàng, nhưng cộng lại số
tiền không được quá giá của đơn vị. Biển giá phải để rõ ràng, giá bán lẻ đơn vị.
- Phải có bảng
để tuyên truyền giới thiệu mặt hàng mới. Bảng giá phải viết bằng chữ nét đậm,
tên hàng, ký hiệu giá bán lẻ đơn vị treo ở nơi dễ thấy nhất phía trước mặt;
- Phải có sổ theo
dõi giá bán lẻ đơn vị. Giá ghi trong sổ do cửa hàng phân phối hàng hóa viết, có
chữ ký của cửa hàng trưởng và dấu của cửa hàng phân phối hàng hóa;
- Chữ số viết
giá bán lẻ đơn vị ở biển giá, bảng giá, sổ theo dõi giá phải bằng mực, không được
tẩy, xóa;
- Mỗi lần thay
đổi giá phải ghi rõ giá cũ, giá mới lên bảng giá. Chữ viết giá mới ở trong sổ
theo dõi giá phải bằng mực đỏ. Chữ viết bằng một thứ mực khi bắt đầu vào sổ mới;
- Hàng tháng sổ
theo dõi giá cả phải được cấp trên trực tiếp xét duyệt lại một lần có đóng dấu
để xác định đã được kiểm tra.
Điều 7. Trước khi bán hàng phải làm vệ sinh nơi bán
hàng, phải lau chùi, sửa chữa, chia lẻ hàng hóa; kiểm tra xác định số lượng
từng mặt hàng, soát lại biển giá và bảng giá ; chuẩn bị giấy hay lá để
gói hàng, lạt hay dây gai để buộc, vật dụng chứa đựng chất lỏng; kiểm tra dụng
cụ bán hàng, đếm lại tiền lẻ ghi vào sổ.
Điều 8. Hàng hóa đưa ra bán phải đảm bảo phẩm chất tốt,
hình thể nguyên vẹn, sạch sẽ, đúng cân, đúng thước, đúng giá bán lẻ đơn vị.
Hàng thực phẩm phải được thi hành đúng thể lệ vệ sinh đã ban hành.
Điều 9. Tuyệt đối không được bán kèm cặp không được dùng
hàng hóa thay tiền lẻ trả lại số tiền thừa của khách,
Điều 10. Bán hàng phải thu tiền ngay, mọi người mua
hàng phải được phục vụ chu đáo, bình đẳng như nhau. Người đến trước mua trước,
không được cảm tình, nể nang.
Tuyệt đối không
được để dành hàng tốt, hàng ngon cho bất cứ ai là người đến mua sau.
Điều 11. Hàng hóa mua xong rồi, khách yêu cầu chia lẻ,
thái nhỏ hay bao gói phải chiều ý khách không được từ chối. Những loại hàng cần
bao gói phải có giấy hay lá gói cẩn thận trước khi giao cho khách.
- Hàng mua xong,
trả tiền rồi nhưng khách yêu cầu đổi hàng khác ngang giá hay phải trả thêm tiền
hoặc vẫn mặt hàng đó nhưng cỡ khác thì phải đổi cho khách nếu hàng đó vừa mua
tại chỗ và còn tốt nguyên;
- Hàng thực phẩm,
thuốc Đông Tây y đã bán xong và khách đi ra khỏi cửa hàng thì không được nhận
trả lại trừ trường hợp bán sai tên hàng, hay phẩm chất có kém rõ ràng.
Điều 12. Hàng hóa bán ra phải qua cân, đo, đong, đủ
trọng lượng, số lượng bằng giá trị số tiền mua hàng không kể giấy gói, dây buộc.
Việc cân, đong,
đo, đếm phải làm trước mắt khách hàng. Nếu khách yêu cầu cân, đong, đo lại thì
phải chiều theo ý của khách.
Điều 13. Để quản lý tài sản được tốt, việc giao nhận
hàng hóa giữa cửa hàng huyện, cửa hàng khu vực với quán hàng, tổ bán hàng, cửa
hàng xã, thôn phải thi hành nghiêm chỉnh chế độ nhận hàng lẻ, kiểm nhận về số
lượng, phẩm chất, có đủ ký mã hiệu.
Điều 14. Mọi người trong cửa hàng phải chấp hành chế độ
bảo mật phòng gian, tuyệt đối giữ bí mật kinh tế Nhà nước, không được cho người
ngoài biết lực lượng hàng hóa tồn kho, kế hoạch mua vào bán ra.
Người không có
trách nhiệm không được vào kho. Dụng cụ phòng hỏa, phòng lụt phải có đủ và thường
xuyên tập dượt.
Điều 15. Kiểm kê đối chiếu tiền, hàng phải tiến hành
từng ngày hoặc từng thời kỳ 5, 10 hay 15 ngày một lần tùy theo hoàn cảnh từng
nơi và quy trách nhiệm vật chất dứt khoát.
- Mỗi khi thay
đổi người phải tiến hành kiểm kê bàn giao, có biên bản và có cấp trên trực tiếp
chứng kiến.
Điều 16 Tiền bán hàng phải nộp đúng ngày giờ trên đã
quy định. Tuyệt đối không được dùng tiền công làm việc tư hoặc cho vay mượn.
Điều 17. Hàng hóa gửi đến không có đủ chứng từ, giá bán
lẻ, phẩm chất kém, quy cách sai không được nhập hoặc có chứng từ nhưng không có
hàng hóa không được vào sổ. Nếu đã nhận rồi mà phát hiện thấy sai lầm, kém phẩm
chất phải kịp thời báo cáo lên cấp trên giải quyết.
Điều 18. Phải chấp hành chế độ quản lý bao bì của Bộ đã
ban hành. Phải bảo quản và thanh toán bao bì như hàng hóa cho cửa hàng mình.
Điều 19. Để thắt chặt quan hệ giữa nhân dân và cửa
hàng, mỗi nơi bán hàng phải có “sổ góp ý và xây dựng của khách hàng” gửi kèm
công văn số 3012-NT-TC ngày 11-9-1962 của Bộ.
Điều 20. Những người có thành tích trong việc thi hành
điều lệ được đề nghị khen thưởng thích đáng. Mọi vi phạm điều lệ tùy theo lỗi
nặng nhẹ mà xử lý theo sự quy định chung.
Ban hành kèm
theo Quyết định số 46-NT ngày 15-01-1963.