1. Nội dung vụ án
Bùi Thị Thùy D không có chức năng tuyển dụng nhưng khi biết được ông Đỗ Tiến K có mong muốn xin con trai vào Kho bạc Nhà nước huyện T và con dâu vào làm giảng viên Trường Cao Đẳng X, Bùi Thị Thùy D đã trao đổi với Hoàng Thị H về việc chạy việc cho con trai và con dâu của ông K. Qua trao đổi, H bảo chi phí khoảng 200 – 250 triệu đồng để xin vào Kho bạc và chi phí khoảng 150 – 180 triệu đồng để xin vào ngành giáo dục. Sau khi H và D thống nhất số tiền để chạy việc; D trực tiếp gặp ông K và trao đổi với ông K chi phí để xin vào Kho bạc là 300 triệu đồng và 270 triệu đồng để xin vào ngành giáo dục. Ông K đồng ý và đưa cho D tổng số tiền là 570 triệu đồng. Ông K và D thống nhất viết hai giấy biên nhận tiền, một giấy ghi D nhận 300 đồng và một giấy ghi D nhận 270 triệu đồng, lý do vay tiền của ông K để giải quyết việc cá nhân.
Sau khi nhận tiền từ ông K, D đã chuyển tổng số tiền cho H là 417 triệu đồng qua nhiều lần và nhiều hình thức khác nhau. Còn lại 153 triệu đồng D giữ lại chi tiêu cá nhân và không nói cho H biết cụ thể. Sau gần 01 năm, con trai và con dâu ông K không được trúng tuyển để đi làm, ông K đã làm đơn tố cáo Bùi Thị Thùy D đến Cơ quan điều tra để xử lý theo pháp luật.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Kết luận điều tra số 29/KLĐT-CQĐT-PC02 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh B đề nghị truy tố bị can Hoàng Thị H và Bùi Thị Thùy D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Cáo trạng số 35/CT-VKS-P2 ngày 23/8/2019 của VKSND tỉnh B truy tố bị can Hoàng Thị H, Bùi Thị Thùy D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HS-ST ngày 03/12/2019 của TAND tỉnh B căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Thị H 9 năm tù; xử phạt bị cáo Bùi Thị Thùy D 7 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hoàng Thị H không kháng cáo; bị cáo Bùi Thị Thùy D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo D rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 160 ngày 07/7/2020.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về xác định số tiền chiếm đoạt để áp dụng khung hình phạt đối với bị cáo H: Trong vụ án này, bị cáo D là người trực tiếp liên hệ và nhận tiền từ ông K để hứa hẹn xin việc cho con ông K với tổng số tiền là 570 triệu đồng. Tuy nhiên, khi D trao đổi với H về xin việc, chỉ trao đổi về trường hợp xin vào Kho bạc thì chi phí từ 200 – 250 triệu đồng/suất và chi phí khoảng 150 -180 triệu đồng/suất để xin vào ngành giáo dục, H không biết D nhận từ ông K bao nhiêu tiền và thực tế H chỉ nhận 417 triệu đồng từ D, nên H chỉ phạm tội theo khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 để truy tố, xét xử đối với bị cáo H là không đúng quy định pháp luật, gây bất lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, với mức án 9 năm tù đối với bị cáo H là phù hợp, nằm trong khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt từ 7 – 15 năm tù nên VKSND cấp cao tại Hà Nội xét thấy không cần thiết kháng nghị giám đốc thẩm.
Theo VKSNDTC
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về