19/02/2025 14:06

Pháp luật Việt Nam về đặt cọc và so sánh với phạt vi phạm hợp đồng?

Pháp luật Việt Nam về đặt cọc và so sánh với phạt vi phạm hợp đồng?

Tìm hiểu quy định của pháp luật Việt Nam về đặt cọc và xử lý vi phạm đặt cọc? So sánh biện pháp đặt đọc với chế tài phạt vi phạm hợp đồng?

Những quy định cơ bản trong pháp luật Việt Nam liên quan đến việc đặt cọc và xử lý vi phạm đặt cọc?

Dựa trên nội dung khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015, “đặt cọc” là hành động trong đó bên đặt cọc chuyển giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc tài sản có giá trị khác trong một khoảng thời gian nhất định nhằm bảo đảm giao kết và/hoặc thực hiện hợp đồng. Như vậy, thỏa thuận đặt cọc được coi là một giao dịch dân sự và chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. So với quy định tại Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 363 Bộ luật Dân sự năm 1995, nội dung về “đặt cọc” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 cơ bản tương tự. Tuy nhiên, điểm khác biệt đáng chú ý là Bộ luật Dân sự năm 2015 không yêu cầu thỏa thuận đặt cọc phải được lập thành văn bản như trước đây.

Theo khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc xử lý tài sản đặt cọc được chia thành ba trường hợp: (1) Khi hợp đồng được giao kết, tài sản đặt cọc được hoàn trả hoặc tính vào nghĩa vụ trả tiền; (2) Nếu bên đặt cọc từ chối giao kết, tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận; (3) Trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, tài sản đặt cọc phải được hoàn trả kèm theo một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ khi có thỏa thuận khác.

Trong quan hệ đặt cọc, nếu bên nhận đặt cọc vi phạm mà không có thỏa thuận khác, họ phải trả tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, thường được gọi là “phạt cọc”. Mặc dù thuật ngữ này không được đề cập trong Bộ luật Dân sự, nó xuất hiện lần đầu trong Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến đặt cọc. Theo nghị quyết này, việc xử lý đặt cọc được chia thành các trường hợp như: (1) phạt cọc khi có lỗi dẫn đến hợp đồng không giao kết hoặc không thực hiện; (2) không phạt cọc nếu hợp đồng bị vô hiệu do lỗi phát sinh trong quá trình thực hiện; (3) hợp đồng vô hiệu khi đặt cọc bị vô hiệu theo thỏa thuận hoặc pháp luật; (4) không phạt cọc nếu cả hai bên cùng có lỗi hoặc do sự kiện bất khả kháng.

Mặc dù Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP được ban hành để áp dụng cho Bộ luật Dân sự năm 1995, các tòa án hiện nay vẫn dựa vào hướng dẫn này để giải quyết tranh chấp liên quan đến đặt cọc. Thuật ngữ “phạt cọc” cũng được sử dụng trong nhiều bản án, trong đó có Án lệ số 25/2018/AL. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa làm rõ ranh giới giữa phạt cọc, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau. Một số ý kiến cho rằng phạt cọc tương tự phạt vi phạm hợp đồng vì không cần chứng minh thiệt hại, trong khi ý kiến khác lại coi đây là biện pháp bồi thường lợi ích bị mất do vi phạm. Trên thực tế, các bản án thường dùng thuật ngữ “phạt cọc”, nhưng cũng có trường hợp được diễn đạt là “bồi thường phạt cọc”.

So sánh phạt cọc và phạt vi phạm?

Theo Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015, phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Điều này cho thấy việc áp dụng chế tài phạt vi phạm cần đáp ứng hai điều kiện: (i) Hợp đồng có thỏa thuận về phạt vi phạm và (ii) Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Pháp luật không giới hạn các hành vi vi phạm có thể áp dụng chế tài này, miễn là được thỏa thuận trong hợp đồng, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định pháp luật. Mức phạt vi phạm được các bên tự do thỏa thuận, trừ khi có quy định khác từ pháp luật liên quan.

Chúng tôi cho rằng phạt cọc và phạt vi phạm là hai chế tài độc lập với các lý do sau:

- Về mục đích: Phạt cọc là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ, nhằm bảo đảm việc giao kết và/hoặc thực hiện hợp đồng của các bên, thay vì hướng đến việc trừng phạt hay tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, phạt cọc mang tính chất hỗ trợ và bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Ngược lại, phạt vi phạm là chế tài dân sự nhằm cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiếp tục vi phạm, không mang ý nghĩa bảo đảm nghĩa vụ hay bù đắp thiệt hại.

- Về điều kiện áp dụng: Phạt cọc là chế tài theo luật định. Dù hợp đồng không có thỏa thuận cụ thể về phạt cọc, bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm theo khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngược lại, phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.

- Về mức phạt: Pháp luật không giới hạn mức phạt cọc, các bên được tự do thỏa thuận. Tuy nhiên, mức phạt quá cao, chẳng hạn gấp hàng trăm hay hàng nghìn lần giá trị tài sản đặt cọc, có thể không được tòa án chấp nhận. Trong khi đó, mức phạt vi phạm được tự do thỏa thuận trong giao dịch dân sự, nhưng nếu giao dịch thuộc phạm vi Luật Thương mại 2005, mức phạt vi phạm tối đa chỉ là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm theo Điều 301 của luật này.

- Về mối quan hệ pháp lý: Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định về mối quan hệ giữa phạt cọc và phạt vi phạm, do đó, hai chế tài này cần được hiểu là độc lập. Phạt cọc thuộc phạm vi quy định tại Điều 328, nằm trong mục “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của Bộ luật Dân sự năm 2015, trong khi phạt vi phạm được quy định tại Điều 418 trong tiểu mục “Thực hiện hợp đồng”. Trước đây, phạt vi phạm từng được xem là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, từ Bộ luật Dân sự năm 2005, phạt vi phạm không còn được coi là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đã trở thành chế tài độc lập cho đến hiện nay.

Phạm Văn Vinh
332

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]