27/02/2025 11:51

Hạn chế của hòa giải và trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam?

Hạn chế của hòa giải và trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam?

Một số hạn chế về phương thức hòa giải thương mại và phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam?

Một số hạn chế về phương thức hòa giải thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam?

Một số hạn chế trong Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại:

Tiêu chuẩn và điều kiện của hòa giải viên: Tiêu chuẩn hiện hành "có kỹ năng hòa giải" mang tính định tính, thiếu định lượng, dẫn đến khó đánh giá. Cần bổ sung yêu cầu hoàn thành các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nghĩa vụ cập nhật kiến thức hàng năm, tương tự các chức danh bổ trợ tư pháp như luật sư hay công chứng viên.

- Thành lập Trung tâm hòa giải thương mại: Nghị định chưa cho phép thành lập trung tâm hòa giải thương mại, hạn chế các tổ chức có năng lực thực hiện. Việc cho phép thành lập trung tâm sẽ giúp giảm chi phí, thời gian, bảo mật thông tin và duy trì quan hệ kinh doanh.

- Số lượng hòa giải viên: Nghị định không quy định số lượng hòa giải viên nếu các bên không thỏa thuận. Cần bổ sung quy định mặc định một hòa giải viên thực hiện khi các bên không có thỏa thuận cụ thể.

- Phạm vi điều chỉnh: Một số tranh chấp như lao động và đất đai trước đây bị hạn chế. Theo Luật Đất đai 2024, các bên có thể hòa giải theo pháp luật thương mại trước khi giải quyết tại cơ quan nhà nước. Nghị định cần mở rộng phạm vi, cho phép hòa giải viên thương mại giải quyết các tranh chấp ngoài thương mại khi được mời.

- Bảo mật thông tin: Nghị định quy định về giữ bí mật thông tin nhưng chưa ngăn chặn việc sử dụng thông tin hòa giải làm bằng chứng tại tòa án khi hòa giải không thành. Cần bổ sung quy định hạn chế việc cung cấp hoặc viện dẫn thông tin trong tố tụng.

- Thời hiệu giải quyết tranh chấp: Thời gian hòa giải không được tính vào thời hiệu khởi kiện, dẫn đến khó khăn nếu hòa giải không thành. Cần bổ sung quy định rõ ràng về việc không tính thời gian hòa giải vào thời hiệu.

- Ràng buộc thỏa thuận hòa giải: Nghị định chưa yêu cầu các bên thực hiện hòa giải nếu đã thỏa thuận trước đó. Cần quy định tòa án hoặc trọng tài từ chối thụ lý nếu các bên chưa thực hiện hòa giải theo thỏa thuận.

Một số hạn chế về phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam?

Một số hạn chế trong Luật Trọng tài Thương mại 2010 về cơ chế giải quyết tranh chấp:

- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Luật Trọng tài Thương mại 2010 liệt kê thẩm quyền của trọng tài nhưng chưa rõ ràng, gây xung đột với tòa án, đặc biệt trong các lĩnh vực như đất đai hay giao dịch vô hiệu. Cần sửa đổi Điều 2 để mở rộng và làm rõ phạm vi thẩm quyền của trọng tài.

- Các bên tranh chấp: Khoản 3 Điều 3 chỉ bao gồm nguyên đơn và bị đơn, không có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này gây khó khăn khi tranh chấp liên quan đến nhiều bên như hợp đồng tín dụng và bảo đảm. Cần sửa đổi để bao gồm cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Hình thức trọng tài: Định nghĩa về trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc tại Điều 3 chưa bao quát thực tế. Cần quy định rõ hơn về các hình thức này để phù hợp với thực tiễn.

- Quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên: Khoản 5 Điều 21 yêu cầu trọng tài viên cung cấp thông tin cho “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” nhưng không cụ thể. Cần làm rõ các cơ quan liên quan như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, cơ quan thuế để đảm bảo tính bảo mật.

- Thi hành phán quyết: Khoản 1 Điều 8 quy định cơ quan thi hành án dân sự nơi ra phán quyết thực hiện thi hành, nhưng điều này không hiệu quả khi người phải thi hành không cư trú tại nơi đó. Cần sửa đổi để xác định cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành có tài sản hoặc nơi cư trú.

- Thời hiệu khởi kiện: Điều 33 quy định thời hiệu khởi kiện trọng tài là 2 năm, không đồng bộ với Bộ luật Dân sự 2015 (3 năm). Cần sửa đổi thời hiệu khởi kiện trọng tài lên 3 năm để đảm bảo thống nhất pháp luật.

- Thời hạn yêu cầu tòa án: Thời hạn 5 ngày để yêu cầu tòa án giải quyết khi không đồng ý với quyết định của trọng tài là quá ngắn so với thông lệ quốc tế (30 ngày theo UNCITRAL). Cần tăng thời hạn này để phù hợp quốc tế.

- Nội dung phán quyết trọng tài: Quy định tại điểm c khoản 1 Điều 61 về việc ghi “địa chỉ của trọng tài viên” trong phán quyết là không cần thiết. Thời hạn ban hành phán quyết 30 ngày cũng quá ngắn cho các vụ phức tạp. Cần lược bỏ yêu cầu không cần thiết và kéo dài thời hạn ban hành phán quyết.

- Hủy phán quyết trọng tài: Quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68 về hủy phán quyết nếu chứng cứ giả mạo chưa rõ ràng; Thuật ngữ “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” tại điểm đ khoản 2 Điều 68 còn mơ hồ, dễ dẫn đến áp dụng tùy tiện. Cần làm rõ nội hàm của các quy định này để tránh hủy phán quyết trọng tài không hợp lý.

Pham Văn Vinh
1

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]