Bản án về tranh chấp ly hôn số 90/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 90/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 382/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2021, về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 16 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Doanh Thị H, sinh năm 1984. (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 4, xã MH, huyện B, tỉnh Bình Phước.

2. Bị đơn: Anh Hồ Quang L, sinh năm 1978. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 4, xã MH, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 19/10/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Doanh Thị H trình bày:

Chị và anh Hồ Quang L tự nguyện tìm hiểu và chung sống từ năm 2013;

đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã MH, huyện B cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trong cuộc sống hôn nhân thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do thiếu sự tôn trọng, tin tưởng và chia sẻ, anh L hay thường xuyên ăn nhậu, không chăm lo gia đình. Chị cũng đã làm đơn khởi kiện chấm dứt ly hôn nhưng sau đó rút đơn về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, sau khi rút đơn về thì vợ chồng tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân cho đến nay. Quá trình sống ly thân không hàn gắn được tình cảm. Nay chị thấy mâu thuẫn cũng trầm trọng, khó sống chung vì vậy yêu cầu được ly hôn với anh Hồ Quang L.

Về con chung: Chị và anh L chung có 2 con chung là Hồ Đăng Quang V, sinh ngày 13/7/2015 và Hồ Bảo An NH, sinh ngày 07/5/2019. Chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hồ Bảo An NH, không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu V thì để anh L nuôi dưỡng, không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị và anh L đều có công việc, thu nhập và nơi ở đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản, nợ chung: Chị và anh L tự nguyện thỏa thuận không yêu cầu giải quyết:

* Bị đơn anh L quá trình giải quyết trình bày:

Anh xác nhận về quan hệ hôn nhân giữa anh và chị H là đúng, xác nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn gia đình trong vài năm trở lại đây. Vợ chồng cũng đã nhiều lần làm thủ tục ly hôn nhưng sau đó rút đơn. Vợ chồng tiếp tục phát sinh mâu thuẫn gia đình như chị H trình bày là đúng. Nay thấy mâu thuẫn cũng trầm trọng, khó sống chung vì vậy đồng ý thuận tình ly hôn với chị H. Anh và chị H có 2 con chung là Hồ Đăng Quang V, sinh ngày 13/7/2015 và Hồ Bảo An NH, sinh ngày 07/5/2019. Anh thống nhất theo ý kiến của chị H về việc nuôi dưỡng con chung, tự thỏa thuận nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh không yêu cầu giải quyết chia tài sản và nợ chung. Không có yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu gì đối với chị H. Anh xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ việc.

* Tại biên bản xác minh tình trạng mâu thuẫn gia đình ngày 30/11/2021 giữa Tòa án nhân dân huyện B với đại diện ban quản lý thôn 4, xã MH nơi chị H và anh L sinh sống thể hiện: Chị H và anh L sinh sống tại địa phương nhưng chính quyền địa phương không nắm được tình trạng và nguyên nhâu mâu thuẫn, do các bên sinh sống xa khu vực dân cư.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện B phát biểu ý kiến: Về tố tụng Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền, đảm bảo thủ tục tố tụng; Về nội dung, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Buộc nguyên đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết bị đơn có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, việc làm đơn của đương sự là tự nguyện nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu ly hôn của chị Doanh Thị H: Chị H và anh Hồ Quang L tự nguyện tìm hiểu và chung sống từ năm 2013; đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã MH, huyện B cấp giấy chứng nhận kết hôn số 48, quyển số 01/2013, ngày 20/5/2013. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L là hôn nhân là hợp pháp, theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, hiện nay là Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về tình trạng mâu thuẫn: Chị H và anh L đều xác nhận, trong cuộc sống hôn nhân thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do thiếu sự tôn trọng, tin tưởng và chia sẻ, không quân tâm chăm sóc nhau. Chị H cũng đã làm đơn khởi kiện chấm dứt ly hôn nhưng sau đó rút đơn về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, sau khi rút đơn về thì vợ chồng tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân từ mấy tháng trở lại đây. Quá trình sống ly thân hai bên không hàn gắn được tình cảm. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa chị H và anh L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2014. Quá trình giải quyết vụ án anh L cũng đồng ý thuận tình ly hôn nhưng từ chối tham gia hòa giải nên Tòa án không có cơ sở ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của các đương sự mà cần giải quyết cho chị H được ly hôn với anh L là phù hợp.

[3] Về con chung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thể hiện chị H và anh L có 02 con chung là Hồ Đăng Quang V, sinh ngày 13/7/2015 và Hồ Bảo An NH, sinh ngày 07/5/2019.

Quá trình giải quyết chị H và anh L đều thống nhất chị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hồ Bảo An NH; anh L được nuôi dưỡng con chung Hồ Đăng Quang V, các bên không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử thấy: Chị H và anh L không tranh chấp về quyền trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con. Các bên đã tự thương lượng được nghĩa vụ nuôi dưỡng và tự thỏa thuận việc cấp dưỡng nuôi con nhưng anh L không đến tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa nên không có cơ sở ghi nhận. Hiện nay chị H và anh L đều có đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung như nhau. Vì vậy, cần giao con chung Hồ Bảo An NH cho chị H nuôi dưỡng; giao con chung Hồ Đăng Quang V cho anh L nuôi dưỡng là phù hợp. Các bên không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết. Các bên có quyền thăm mom con và yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân & gia đình năm 2014 là phù hợp. [4] Về tài sản, nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị H và anh L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82; Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân & gia đình năm 2014.

Áp dụng Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Doanh Thị H đối với bị đơn anh Hồ Quang L; Chị Doanh Thị H được ly hôn với anh Hồ Quang L.

2. Về con chung: Giao con chung Hồ Đăng Quang V, sinh ngày 13/7/2015 cho anh Hồ Quang L trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung tHnh niên.

Giao con chung Hồ Bảo An NH, sinh ngày 07/5/2019 cho chị Doanh Thị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung thành niên.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Bên không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Doanh Thị H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 00000072 ngày 01/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 90/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:90/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về