Bản án về tranh chấp ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

Bản án 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 79/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/ QĐXXST-HNGĐ ngày 17/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST- HNGĐ ngày 05/4/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thuỷ T – sinh năm 1996 (có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T1, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn: Anh Phạm Tùng D – sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa chị Huỳnh Thị Thuỷ T trình bày: Tôi và anh Phạm Tùng D chung sống với nhau vào ngày 09 tháng 8 năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương, có tìm hiểu nhau trước khoảng 2, 3 năm mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Vợ chồng chung sống thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh D thường xuyên có tính ghen tuông, chửi bới đánh đập tôi, anh D không có trách nhiệm với vợ con, từ đó vợ chồng luôn bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, tôi đã khuyên và tha thứ cho anh D nhiều lần nhưng anh D vẫn không thay đổi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn lại được. Vợ chồng không sống với nhau từ năm 2020 cho đến nay.

- Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng có 01 người con chung tên Phạm Huỳnh Gia P, sinh ngày 01/01/2018, hiện nay cháu P đang sống với tôi.

- Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại phiên tòa chị T yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: chị T yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Tùng D.

- Về quan hệ con chung: tôi xin nuôi cháu P, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn anh Phạm Tùng D, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh D vẫn không đến Tòa án để tham gia tố tụng và cũng không có bất cứ văn bản nào thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hiệp phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt các thủ tục tố tụng hợp lệ.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hiệp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thuỷ T, cho ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thuỷ T và anh Phạm Tùng D. Về quan hệ con chung: giao cháu Phúc cho chị T nuôi dưỡng, anh D không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Tùng D với tư cách là bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh D vắng mặt. Xét thấy anh D đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Thông báo mở lại phiên toà hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh D vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh D là hôn nhân hợp pháp, vì anh chị chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, giấy chứng nhận kết hôn số 187 ngày 08/11/2017 theo đúng quy định của pháp luật. Phù hợp với Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị T cho thấy vợ chồng anh chị chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, chị T cho rằng Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh D có tính ghen tuông, hay chửi bới đánh đập chị T, anh D không có trách nhiệm với vợ con, chị T đã tha thứ và khuyện anh D nhiều lần nhưng anh D vẫn không thay đổi, vợ chồng không sống chung từ năm 2020 cho đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ, nhưng anh D không đến Tòa án để tham gia tố tụng, vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh D và anh D cũng không có bất cứ văn bản nào thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau....”. Xét thấy thực tế giữa chị T và anh D không có tiếng nói chung trong cuộc sống, không sống chung với nhau từ năm 2020 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, không ai có ý muốn hàn gắn cuộc sống vợ chồng, xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị T.

[4] Về quan hệ con chung: chị T xác nhận chị và anh D có 01 người con chung tên Phạm Huỳnh Gia P, sinh ngày 01/01/2018.

Tại phiên tòa chị Tiên yêu cầu được nuôi cháu P, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Xét yêu cầu của chị T xin được nuôi cháu P là có cơ sở chấp nhận và phù hợp với đạo đức xã hội vì từ khi chị T và anh D không sống chung với nhau thì cháu P trực tiếp sống với chị T, hơn nữa cháu P còn nhỏ còn sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn và anh D cũng không có ý kiến gì về việc chị T xin được nuôi cháu P. Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin được nuôi cháu P không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con của chị T.

Tiếp tục giao cháu Phạm Huỳnh Gia P, sinh ngày 01/01/2018 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: chị T xác nhận chị và anh D không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp, có cơ sở chấp nhận theo đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí HNST: Buộc chị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thuỷ T. Cho ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thuỷ T và anh Phạm Tùng D.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Phạm Huỳnh Gia P, sinh ngày 01/01/2018 cho chị Huỳnh Thị Thuỷ T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh Phạm Tùng D không phải cấp dưỡng nuôi con. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Huỳnh Thị Thuỷ T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0008290 ngày 19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về