Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 20/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 434/2023/TLST - HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 03/2024/QĐST- HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Minh N, sinh ngày 19/7/1985 (Có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã H, huyện T, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 19/10/1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện D, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 15/9/2023, bản tự khai ngày 15/12/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Minh N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh P tự quen biết tìm hiểu nhau được 01 năm, sau đó hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, cưới nhau năm 2012 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Hoá, huyện C, tỉnh B vào năm 2012. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến tháng 5/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh P thường xuyên nhậu nhẹt, ăn chơi không quan tâm, chăm lo cho gia đình vợ con, nên vợ chồng thường xuyên cự cãi sống không hạnh phúc, đã ly thân từ tháng 5/2016 cho đến nay. Hiện chị về nhà cha mẹ ruột sống tại ấp C, xã An Hoá, huyện C, tỉnh B. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu ly hôn với anh P.

- Về nuôi con chung: Có 01 chung tên là Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 21/12/2013. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Đối với anh Nguyễn Hoàng P là bị đơn, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng anh đều vắng mặt, mặc dù anh vẫn còn sinh sống tại địa phương, nên không thu thập được lời khai của anh.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh P. Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 21/12/2013 cho chị N nuôi dưỡng và phù hợp với nguyện vọng của cháu. Ghi nhận chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Hoàng P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh P là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh P cưới nhau vào năm 2012 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Hoá, huyện C, tỉnh B vào năm 2012 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh P được công nhận hợp pháp.

Nay chị N yêu cầu ly hôn, anh P vắng mặt nên không có lời khai. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị N trong quá trình giải quyết vụ án, đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh P thường xuyên nhậu nhẹt, ăn chơi không quan tâm, chăm lo cho cho gia đình vợ con nên sống không còn hạnh phúc, hiện tại mỗi người sống một nơi và đã đã ly thân từ tháng 5/2016 cho đến nay.

Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị N và anh P để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh P vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh P đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị N và anh P đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẽ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị N là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị N và anh P có 01 chung tên là Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 21/12/2013, hiện đang sống với chị N. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Như A, xét thấy từ trước đến nay cháu đều do chị N trực tiếp nuôi dưỡng, việc chị nuôi con chung vẫn phát triển bình thường. Mặt khác, tại thời điểm giải quyết ly hôn giữa chị N và anh P thì cháu Như A đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với chị N; chị N cũng có nguyện vọng được nuôi con, nên để nhằm ổn định về tinh thần con chung của anh và chị và phù hợp với nguyện vọng của cháu Như A, cần để cháu Như A cho chị N nuôi dưỡng cũng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi các con chung của chị N.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Chị N khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Về nợ chung: Chị N khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ về quan điểm giải quyết vụ án: Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị Minh N đối với anh Nguyễn Hoàng P.

Cho ly hôn giữa chị Võ Thị Minh N và anh Nguyễn Hoàng P.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Võ Thị Minh N và anh Nguyễn Hoàng P chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 21/12/2013 cho chị Võ Thị Minh N trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện chị Võ Thị Minh N nuôi con chung không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng P cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Hoàng P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Võ Thị Minh N trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Hoàng P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị N khai không có, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Chị N khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Chị Võ Thị Minh N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000408 ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh B. Như vậy, chị Võ Thị Minh N đã nộp đủ án phí.

Chị Võ Thị Minh N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn Hoàng P vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về