TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 18 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 384/2021/TLST- HNGĐ ngày 02/3/2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con ” giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1986.
Địa chỉ: 248, tổ 4, ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Ông Phạm Thế P, sinh năm 1984.
Địa chỉ: 19/37D, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đ. ( Bà H có đơn xin vắng mặt, ông P có mặt )
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà và ông Phạm Thế P tự nguyện thương yêu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố B, tỉnh Đ vào ngày 01/8/2018. Bà và ông P có 01 con chung là Phạm Hoàng P1, sinh ngày 22/6/2018.
Quá trình chung sống bà H và ông P phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông P thường xuyên nhậu nhẹt về đe dọa gây áp lực, thậm chí có hành động xé quần áo của bà, hàng đêm cứ đến đập cửa nhà bà làm bà lo sợ, mệt mỏi tinh thần, sự việc này đã diễn ra từ năm 2019, bà đã ngồi lại nói chuyện với ông P, nhưng ông không thay đổi được. Bà và ông P đã không sống cùng nhau từ tháng 01/2021, nay bà không còn tình cảm, bà yêu cầu được ly hôn với ông P. Khi ly hôn, bà đồng ý để ông P được trực tiếp nuôi con là Phạm Hoàng P1, tạm thời bà không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu tòa án giải quyết; Nợ chung không có.
Bị đơn Ông Phạm Thế P trình bày:
Quá trình chung sống do bản thân ông muốn gần gủi với bà H nhưng bà H không cho mà còn trốn tránh, từ chối ông, tình trạng đó kéo dài hơn 01 năm, bản thân ông có nhu cầu sinh lý bình thường nên ông mới có hành vi đập cửa, xe quần áo như bà H trình bày. Thực tế ông và bà H không sống cùng nhà từ tháng 5/2021, còn trước đó ông bà sống cùng nhà nhưng mỗi người ở một phòng riêng. Nay bà Hòa yêu cầu ly hôn, ông không đồng ý, vì bản thân ông là người theo đạo công giáo nên không được phép ly hôn và hiện nay con còn nhỏ sợ ly hôn sẽ ảnh hưởng đến con, nếu vợ chồng ly hôn thì không có cách gì hàn gắn lại nữa vì gia đình ông không chấp nhận việc đó.
Trường hợp, ông và bà H ly hôn, ông yêu cầu được nuôi con là Phạm Hoàng P1, không yêu cầu bà H phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung yêu cầu chia tài sản chung là số tiền ông đã đưa cho vợ mở nhà thuốc; nợ chung không có.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Hôn nhân giữa bà H và ông P là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H có căn cứ.
Về con chung: Bà H và ông P thống nhất giao con chung là Phạm Hoàng P1, sinh ngày 22/6/2018 cho ông P nuôi dưỡng nên cần giao con chung cho ông P là phù hợp. Tạm thời bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Trong quá trình làm việc, Tòa án đã giải thích và ấn định thời gian cho ông P làm đơn yêu cầu chia tài sản chung nhưng ông P không làm đơn. Tại phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải, ông P không yêu cầu chia tài sản nên đề nghị không xem xét trong vụ án này.
Về nợ chung: Đương sự khai không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Bà H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Ông Phạm Thế P cư trú tại phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ Điều 28 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Bà H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà H.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông P chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2018 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đ nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của bà H và ông P thì vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ nhau và đã sống ly thân từ năm 2021 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn nên bà H đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với ông P để bà ổn định cuộc sống mới. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông P thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải hàn gắn đoàn tụ nhưng bà H cương quyết ly hôn không đồng ý đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc ly hôn với ông Phạm Thế P.
[3] Về con chung: Bà H và ông P thống nhất giao con chung Phạm Hoàng P1, sinh ngày 22/6/2018 cho ông P nuôi dưỡng nên cần giao cháu P1 cho ông P là phù hợp. Tạm thời bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung: Tại các buổi làm việc, Tòa án đã giải thích cho ông P về việc làm đơn yêu cầu chia tài sản chung. Tòa án đã ấn định thời gian nhưng ông P không làm đơn. Tại phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải thì ông P không yêu cầu chia tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về việc chia tài sản chung trong vụ án này. Ông P có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác chia tài sản chung sau khi ly hôn.
[5] Về nợ chung: Đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần ghi nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 207; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Phạm Thế P.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Phạm Hoàng P1, sinh ngày 22/6/2018 cho ông Phạm Thế P trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.
Bà H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Đương sự khai không nợ chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa, biên lai số 0000173 ngày 24/02/2021. Bà H đã nộp xong án phí.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 80/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về