Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 409/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T , sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn Cây Da, xã Phú V, huyện Bù Gia M, tỉnh Bình Phước, tạm trú: 167A đường B, khu phố B2, phường B, thành phố A, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Cao Trường T, sinh năm 1987; thường trú: Ấp Hòa L, xã Vĩnh H, huyện C, tỉnh Bến Tre; tạm trú: 167A đường B, khu phố B2, phường B, thành phố A, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Bà Nguyễn Thị T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 11 năm 2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Cao Trường T sau thời gian tìm hiểu nhau thì tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre vào ngày 09 tháng 12 năm 2019, Giấy chứng nhận kết hôn số 59. Sau khi kết hôn hai vợ chồng thuê nhà trọ chung sống tại số 167A đường Bình Thung, khu phố Bình Thung 2, phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Thời gian đầu sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong lối sống và sinh hoạt, ông T thường xuyên đi nhậu về nhà lại gây sự đánh bà Thu. Từ đầu năm 2019 đến nay vợ chồng sống ly thân không còn sống chung với nhau.

Nay bà Thu xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông Cao Trường T .

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Cao Gia L, sinh ngày 07/02/2020; Con chung từ trước đến nay vẫn do bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Cao Trường T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 14/4/2022 bị đơn ông Cao Trường T trình bày: ông và bà Nguyễn Thị T là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre vào ngày 09/12/2019 nhưng thực tế thì vợ chồng anh đã sống chung với nhau từ năm 2014. Sau khi kết hôn thì hai vợ chồng thuê nhà trọ sinh sống tại 167A đường Bình Thung, khu phố Bình Thung 2, phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Anh T xác định vẫn còn yêu thương vợ con không muốn ly hôn, nhưng nếu bà T kiên quyết ly hôn thì ông cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của bà T.

Về con chung: Thống nhất với lời bày của bà T là giữa hai vợ chồng có 01 con chung tên Cao Gia L, sinh ngày 07/02/2020. Sau khi ly hôn ông T đồng ý giao con chung cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và ông không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự, nguyên đơn, bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bị đơn ông Cao Trường T đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ theo Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị T và ông Cao Trường T .

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Cao Trường T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre vào ngày 09 tháng 12 năm 2019, Giấy chứng nhận kết hôn số 59 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Bà Nguyễn Thị T cho rằng quá trình sống chung với ông Cao Trường T, ông bà không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau khiến cho cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Vì vậy, bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Bị đơn ông Cao Trường T cho rằng vẫn còn yêu thương vợ con nhưng cũng không tham gia hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng mà yêu cầu Tòa án giải quyết theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị T . Điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà T yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của bà Nguyễn Thị T .

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Cao Gia L, sinh ngày 07/02/2020, quá trình cha mẹ sống ly thân cháu L do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, cháu L còn nhỏ, cần được sự chăm sóc, quan tâm để phát triển tốt nhất. Quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Cao Trường T cũng đồng ý giao con chung Cao Gia L cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, việc giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà T về việc được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị T tự nguyện không yêu cầu ông Cao Trường T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của bà Thu là hoàn toàn tự nguyện cần được ghi nhận.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về việc giải quyết vụ án.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Bà Nguyễn Thị T phải chịu án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Cao Trường T (Giấy chứng nhận kết hôn số 59 do Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre cấp ngày 09 tháng 12 năm 2019).

2 Về con chung: Bà Nguyễn Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Cao Gia L, sinh ngày 07/02/2020. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị T không yêu cầu ông Cao Trường T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, bà Nguyễn Thị T và ông Cao Trường T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003248 ngày 07/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về